Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Tùy Chuyển Tuyên Thuyết Chư Pháp

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI THỪA TÙY CHUYỂN

TUYÊN THUYẾT CHƯ PHÁP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiệu Đức, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Giáo Biện Tài, Đời Tống Minh
 

PHẦN HAI
 

Đến một thôn xóm

Trong thôn xóm kia

Nhiều người tu lành

Nghe tiếng tụng Phật

Không sinh kính ngưỡng

Chỉ tìm bạn ác

Cùng tạo dục lạc

Rơi vào đường ác,

Mất nẻo bồ đề

Nếu là thầy dạy

Tỳ Kheo tri thức

Tạo các công đức

Cầu hạnh đại thừa

Ít nghe pháp âm

Không thích thân gần

Thường hành nhẫn nhục

Tâm không kiêu mạn

Tìm hỏi Pháp Sư

Siêng cầu pháp tốt

Trì Đà La Ni

Chương cú bí mật

Biên chép Kinh quyển

Vô số trăm ngàn

Trí tuệ phát sáng

Hớn hở vui mừng

Những người như vậy

Đạt công đức Phật

Chẳng khác với Phật

Trải qua nhiều kiếp

Lại không thoái chuyển

An trụ Phật Đạo

Vắng lặng không lay.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Sư Tử Du Hý thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Ngày nay, nghe được pháp mầu nhiệm sâu xa của Phật nói, chúng con sinh tâm vui mừng chưa từng có, chiêm ngưỡng oai quang, trông mong sự dạy bảo, thề siêng un đúc sự tu tập, không dám biếng nhác.

Thế nên, nếu có lạc pháp nào, cúi xin Thế Tôn hãy vì chúng con mà khai nói. Khi đó có các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu Na, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cùng hàng quyến thuộc của mình, với các chúng sinh ở thế gian, đều đến gần cung kính cúng dường, tôn trọng, lễ bái và sau này đều được giải thoát.

Lại có tám ngàn Thiên Tử, cùng các quyến thuộc, vứt bỏ sự vui sướng ở Cõi Trời, đến chỗ Phật, nghe pháp mầu nhiệm mà cầu giải thoát.

Lại có hai ngàn Dạ Xoa, cùng quyến thuộc của mình, dứt trừ bạo ác, cùng phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Lại có ba ngàn Rồng lớn cũng cùng hàng quyến thuộc của mình, phát tâm bồ đề, đi đến chỗ Phật, mong cầu được lìa khỏi.

Lại có năm trăm chúng Tỳ Kheo Ni, cũng đến gần, cung kính, lễ bái, tôn trọng, ca ngợi, vui mừng, hớn hở, nghe nhận giáo pháp, cầu đạo bồ đề.

Lại có hai ngàn câu chi chúng Đại Bồ Tát, nghe Phật nói pháp, trừ bỏ chướng ngại, đạt được giải thoát.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Sư Tử Du Hý: Thiện nam! Khi xưa ta với ông, đã từng được nghe Đức Nhiên Đăng Như Lai, Đấng Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác nói những điều cốt lõi của giáo pháp, tu hạnh nhẫn nhục, cam chịu cực khổ, không hề thiếu phạm, không sinh các điều ác, đầy đủ tròn đầy.

Lại được nghe Phật diễn nói sáu pháp Ba la mật mầu nhiệm, cao cả, gồm: Bố thí Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, trí tuệ Ba la mật, nhờ đó mà căn lành được tăng trưởng, đạt sự không thoái chuyển.

Và cũng chính vào lúc đó, nhờ nghe giáo pháp của Phật, chăm chỉ thực hành, nên chứng được đạo quả, đạt được tướng của Bậc Đại Nhân, tôn trọng Phật Pháp, thường cúng dường Chư Phật ở mười phương, cùng các Đại Bồ Tát, phụng thờ bậc thiện tri thức, rõ tánh pháp không và ngay trước mắt đắc được chánh niệm.

Này Thiện Nam! Còn ông, thì vào thời quá khứ trải qua vô số A tăng kỳ kiếp, có một vị Phật ra đời, hiệu là Tu Di Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị Phật này, thọ mạng vô lượng cả trăm ngàn câu chi na dữu đa năm. Thế Giới tên là Lưu ly kim quang. Cõi nước của vị Phật ấy bằng phẳng như đá mài.

Các loại báu như: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não hợp lại thành vật nghiêm sức cõi nước ấy. Trong đó, không có các sự ô uế, xấu ác, gạch ngói, gai góc.

Này Thiện Nam! Vào lúc đó, trong chúng hội của vị Phật này, có tám trăm ngàn câu chi na dữu đa Tỳ Kheo đều là những bậc A La Hán, đã dứt sạch tất cả lậu hoặc, không còn mọi ràng buộc phiền não, tâm được giải thoát. Lại có vô số trăm ngàn chúng Tỳ Kheo Ni, vô số trăm ngàn chúng Ưu Bà Tắc, vô số trăm ngàn chúng Ưu Bà Di cũng đến tập hợp nơi pháp hội.

Thiện Nam! Khi ấy, Đức Thế Tôn đem Ba Thừa giáo hóa chúng sinh, nói pháp Tứ Đế cho các hàng Thanh Văn, nói pháp mười hai nhân duyên cho các hàng Duyên Giác, nói sáu pháp Ba la mật cho các hàng Bồ Tát. Đức Phật ấy khéo trình bày những cốt yếu của các pháp mầu nhiệm, sâu xa. Khiến cho đại chúng an trụ trong giáo pháp, đều đạt được sự giải thoát.

Này Thiện Nam! Đất báu trong Thế Giới Lưu ly kim quang ấy bằng phẳng, nhiều hàng cây báu mọc hai bên đường. Lưới báu, dây vàng, giao nhau làm ranh giới đường đi, từng luồng gió mầu nhiệm thổi qua, va chạm, lay động phát ra âm thanh rất hay.

Âm thanh ấy, diễn nói các pháp: Vô thường, khổ, không, vô ngã.

Có những âm thanh pháp mầu nhiệm, như: Âm thanh không, âm thanh không tướng, âm thanh không nguyện, âm thanh không sinh, âm thanh không diệt, âm thanh không sắc, âm thanh không tánh. Tất cả chúng sinh trong cõi nước đó, nghe được những âm thanh mầu nhiệm kia, tâm liền sinh vui mừng và đều được sự giải thoát.

Thiện Nam! Trong giáo pháp trong sạch của Đức Tu Di Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ông làm Tỳ Kheo tên là Khuyến Tuệ, ưa thích chánh pháp, cầu các loại trí Phật, không một chút tham dục, căn giới đều trong sạch, tâm luôn vui vẻ ca ngợi đại thừa, siêng tu suốt ngày, cung kính cúng dường, hễ có ai đến cầu pháp, thì ông vì họ mà diễn nói, không sinh lòng giấu diếm, trình bày đầy đủ, khiến họ giải thoát, tâm không mong cầu ở nơi yên ổn, bình đẳng đầy đủ căn lành, trọn vẹn hạnh nguyện bồ đề.

Thiện Nam! Vì cầu chánh pháp, Tỳ Kheo ấy ưa tụng Kinh Điển, trí tuệ tăng trưởng, nương nơi đại thừa vô lượng công đức, hầu hạ bậc thầy tri thức, suốt đời cúng dường không hề mỏi mệt, dùng nhiều cách thức giáo hóa khiến mọi chúng sinh được an vui.

Thiện Nam! Vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh, Tỳ Kheo Khuyến Tuệ, bèn rời nơi ở, đi vào thôn xóm, cứ lần lượt từng nhà mà khất thực. Trong thôn xóm ấy, những nam nữ có lòng tin trong sạch, tìm đến gần gũi, sinh lòng kính trọng, cúng dường đủ thứ.

Tỳ Kheo Khuyến Tuệ, vì họ mà nói những điều cốt yết của giáo pháp, những công đức khó lường của nhẫn nhục thiền định, khiến họ tin hiểu, đạo tâm vững chắc. Trong thôn xóm ấy, có một hạng chúng sinh thấp kém, rất sợ hãi khi thấy Tăng chúng, vì ý không muốn gặp nên bỏ đi thật xa. Đấy chính là do mầm móng tạo việc ác khi xưa của họ, chẳng khác nào như những loại gia cầm súc vật.

Khi thấy người ác kia, Tỳ Kheo Khuyến Tuệ sinh lòng thương xót, không ngần ngại chịu khó khuyên nhủ, rồi dần dà gần gũi, chỉ bảo, dẫn dắt, nói những điều cốt yếu của giáo pháp cho nghe, khiến họ tỏ ngộ, ăn năn những lỗi lầm, quay về nương tựa nơi Tam Bảo.

Này thiện nam! Trong lúc đó, những bạn lành tri thức cùng ở nơi Tịnh Xá của Tỳ Kheo Khuyến Tuệ, nói với nhau: Tỳ Kheo Khuyến Tuệ này, là người thuở xưa đã gieo trồng gốc thiện, thấu rõ sâu xa cốt lõi của giáo pháp, là bậc đứng đầu trong chúng, thế tại sao, nay lại lìa bỏ Tịnh Xá, đi đến thôn xóm, chấp nhận chịu mọi khổ cực, khất thực, giáo hóa chúng sinh?

Hàng Tỳ Kheo chúng ta đây, sinh lòng nhớ nghĩ, hãy cùng nhau tìm đến đón ngài trở về. Khi vừa đến nơi, đã thấy ngài Khuyến Tuệ, tất cả sinh tâm vui mừng, hỏi han, chúc bình an sức khỏe. Chúng con, hôm nay tìm đến thăm hỏi, mong ngài trở về, chúng con sẽ tùy thời cúng dường những thức ăn, thức uống ngon sạch, hoa đèn quả.

Chỉ mong sao ngài thương xót mà cùng trở về chỗ ở cũ. Tỳ Kheo Khuyến Tuệ không chấp nhận lời thỉnh mời, về sống an vui nơi vắng lặng. Lại rời nơi thôn xóm mà đi, gặp một Lan nhã, liền ở nơi vắng vẻ này vứt bỏ các duyên, lặng lẽ an trụ, chuyên tu khổ hạnh, chứa nhóm công đức, trí tuệ càng tăng trưởng.

Sau đó, có một lần, do không thích nơi Lan nhã nữa, Tỳ Kheo Khuyến Tuệ, lại vào núi sâu, nơi không ai có thể đến được, khen ngợi đây là nơi có thể ở yên ổn được, chuyên trì kiết hạ, tu tập thiền quán, tuân theo cấm chế của Phật. Nơi đây có rất nhiều loài thú qua lại.

Những thú hoang như là: Hổ, báo, sư tử. Và cả loài thú bay đều đến gần, thân thiện ngậm hoa dâng quả, cúng dường đủ thứ. Khi ấy, Tỳ Kheo Khuyến Tuệ mới sinh lòng vui mừng, nên càng siêng năng tu tập không còn sự thoái chuyển.

Thiện Nam! Vào thời xa xưa đấy, có một hạng Tỳ Kheo, đối với giáo pháp của Phật, họ không sinh lòng ưa thích, không tu phạm hạnh, không giữ giới luật, chê bai đại thừa, ăn không của tín thí, không có sự hổ thẹn, tránh xa bậc Thiện tri thức.

Thường kết bè phái với kẻ ác, hết sức tham độc, khiến ai cũng chẳng muốn nhìn, ngu si tạo ác, đánh mất áo ca sa, phải bị đọa vào địa ngục, trải qua chín mươi câu chi trăm ngàn kiếp, phải chịu mọi sự khổ não lớn lao.

Một khi tội này vừa hết, họ còn phải chịu sự cực khổ, trong mọi nỗi khổ, suốt sáu mươi trăm ngàn câu chi kiếp nữa mà không thể nào ví dụ được. Và về sau, họ gặp Tỳ Kheo Khuyến Tuệ, được dạy dỗ đủ thứ, được nghe nói về Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác về giáo thừa thanh tịnh, khiến cho họ sinh lòng tin hiểu.

Thiện Nam, cũng trong giáo pháp của Đức A Diễm Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tỳ Kheo Khuyến Tuệ cũng làm một vị Tỳ Kheo, ưa thích chánh pháp, cầu trí tuệ Phật, cung kính cúng dường với cả lòng chân thành, tôn trọng giáo pháp của Phật.

Biên chép Kinh Điển, tạo các công đức, tâm không biếng nhác, gần gũi bậc thiện tri thức, sinh lòng vui vẻ dùng nhiều cách thức, khuyến khích dạy dỗ loài hữu tình, khiến cho họ được ra khỏi sinh tử, các chúng sinh lúc đó, rất vui mừng, kính trọng và ngưỡng mộ Tỳ Kheo Khuyến Tuệ này.

Thiện Nam! Đức Như Lai kia, cũng vì Tỳ Kheo Khuyến Tuệ, mà nói những điều cốt yếu của chánh pháp, khiến cho ông: Trí tuệ được tăng trưởng, khổ não không còn phát sinh, tham sân không còn tạo nữa, không vì những bạn xấu mà bị rơi vào nẻo ác, đề phòng và bảo vệ được bản thân mình, không còn sự lỗi lầm, hết lòng cúng dường, giảng nói chánh pháp, ngày đêm thường giữ gìn pháp báu trong sạch, dần dà tăng tiến, không còn thoái lui.

Này Thiện Nam! Khi nghe những điều Phật nói, về việc thực hành mười nghiệp lành, tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên Thế Giới đều được an trụ trong chánh pháp, tất cả hàng Bồ Tát thực hành sáu Ba la mật thì công đức được đầy đủ, an vui tất cả.

Khi ấy, Phật mới bảo Bồ Tát Sư Tử Du Hý: Vị Tỳ Kheo Khuyến Tuệ khi xưa, nay chính là ta đây.

Khi đó, Đồng chân Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao lìa bỏ nghiệp chướng, tâm được trong sạch?

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Muốn lìa ác nghiệp nên học tất cả pháp, hiểu rõ các pháp. Tâm phân biệt thì phát sinh hư vọng không thật, trí không thì hiện tiền nghiệp chướng tự tiêu trừ, tâm được trong sạch.

Này Văn Thù Sư Lợi! Từ xưa đến nay, do lầm tưởng điên đảo, tham sân si làm nhân, tất cả chúng sinh, tạo ra vô lượng vô biên nghiệp giết hại, trộm cắp, dâm dục, đọa lạc nơi các nẻo, xoay vòng trong sự sống chết, chịu mọi khổ não, không hề dừng nghỉ, nghiệp chướng hừng hẫy, ác quỷ gây quấy, nên tâm không đạt được sự trong sạch.

Này Văn Thù Sư Lợi! Nếu muốn biết tất cả chúng sinh lìa các nghiệp chướng, tâm được trong sạch thì ông nên học tất cả pháp của Như Lai.

Phải trong sạch ba nghiệp thân, miệng, ý, ngày đêm phải siêng năng, tu trì phạm hạnh, xa lìa khổ não, không sinh sự phân biệt, mong cầu bồ đề, cung kính cúng dường Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng, thường xuyên tụng học Kinh Điển đại thừa bí mật Đà La Ni. Thân tâm vững chắc.

Không có sự thoái lui, quán tưởng để thấu rõ sự sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt, mỗi ý niệm đều vô thường, sinh diệt trong từng sát na, tất cả đều là giả dối, không chân thật, phải an ổn ở trong thiền định, dần dần tăng tiến, tâm không tán loạn, mọi loài ác quỷ, không thể làm gì được. Tự nhiên vui vẻ, tâm ý phát sáng.

Nhóm các công đức, kéo dài tuệ mạng, chứng đạo quả Vô Thượng Phật Bồ Đề là người xuất gia, là Phật tử chân chánh. Vì vậy ông nên biết, tạng pháp sâu xa của Như Lai, rộng lớn như biển, làm lợi ích cho loài hữu tình, không thể cùng tận. Đạt được pháp bảo vô thượng, rồi lại tu thiền định quán tưởng pháp là không, không các sự khổ não.

Đạt được sức công đức, thực hành hạnh bình đẳng, thường giữ gìn tâm ý, trọn ngày cung kính, tôn trọng, ca ngợi, trông mong, giải thoát tất cả, thân tâm vui vẻ, thấu rõ mọi sự sinh diệt đều là huyễn là mộng, an vui ở trong chánh pháp, sinh nơi tốt lành, đầy đủ trọn vẹn, không còn lui mất. Nếu như dựa vào đó mà tu, nghiệp ác sẽ tự tiêu trừ, tâm sẽ được trong sạch.

***