Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Quảng đại Thành Tựu Du Già

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA

THÀNH PHẬT THẦN BIẾN GIA TRÌ

LIÊN HOA THAI TẠNG BỒ ĐỀ TRÀNG

TIÊU XÍ PHỔ THÔNG CHÂN NGÔN

TẠNG QUẢNG ĐẠI THÀNH TỰU DU GIÀ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Toàn, Đời Đường
 

PHẦN TÁM
 

Mật Ấn như Minh Vương

Nâng lên co Phong Luân ngón trỏ

Gần Thánh Giả Đa La

Trú ở Bạch Xứ Tôn

Mão tóc đều trắng đẹp.

Tay hoa Bát Đầu Ma Padma: Hoa sen hồng.

Định Tuệ hai tay hư tâm hợp chắp tay lại giữa trống rỗng.

Không ngón cái thủy ngón vô danh vào trong nguyệt lòng bàn tay.

Trước mặt Thánh Giả làm

Đại Lực Trì Minh Vương

Màu như ánh nắng sớm

Dùng sen trắng nghiêm thân

Hách dịch thành tóc lửa

Gầm giận lộ răng nanh

Tóc, móng vuốt Thú Vương

Ấn như Bạch Xứ Tôn.

Dời phong ngón trỏ dưới không luân ngón cái.

Cách nhau như hạt lúa

Địa Tạng, hợp viên mãn.

Hai không hai ngón cái bên phong luân ngón trỏ.

Như vậy thành ứng khí.

Quán Tự Tại Bồ Tát Chân Ngôn là: A phộc lô chỉ đế thấp phộc la: Avalokiteśvara.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam sa chủng tử tát phộc đát tha nghiệt đa tất cả Như Lai phộc lộ cát đa tức là bình đẳng phổ nhãn quán yết lỗ ninh ma dã ba thể đại bi làm thể la la la la nghĩa là bụi bặm, vào a tự môn.

A là không có, tức là nghĩa không có bụi bặm.

Dùng không bi làm thể lìa ba độc được ba căn lành của nhóm không có tham, sinh ba giải thoát nên lập lại chữ la ba lần hồng nghĩa là nhân, nghĩa là khủng bố. Dùng sức uy mãnh tự tại khủng bố ba bụi chướng nặng nề khiến được thanh tịnh mà đồng với mắt Phật. Hồng có chữ ha là nghĩa vui vẻ, trên có điểm không là nghĩa tam muội nhạ chủng tử tức là nghĩa chẳng sinh sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ SA SARVA TATHĀGATA AVALOKITA KĀRUṆA MAYA RA RA RA, HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đa La Bồ Tát Chân Ngôn là: Lộ Đa La Nễ Vĩ Tārā devī như con thuyền đưa người vượt biển lớn đến ở bờ bên kia được tự tại.

Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam đam chủng tử yết lỗ noa bi ốt bà phệ sinh, ấy là bi giả nên Bồ Tát này sinh từ trong mắt của Quán Âm, do thấy thật tính của pháp mà có tên là Phổ Nhãn, thấy nơi thể của như như đa lệ hô lên điều ấy đa lý nê nghĩa là đưa qua, dùng chữ đa ban đầu làm thể sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ TAṂ KĀRUṆA UDBHAVE TĀRE TĀRIṆI SVĀHĀ.

Tỳ Câu Chi Bồ Tát Chân Ngôn là: Phạn ghi là: Bột lý Câu Chi Bhṛkuṭi tức hình khủng bố tất cả, lìa hẳn bốn Ma.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam bột lý chủng tử tát phộc bà dã tất cả khủng bố đát la như như làm thể tán nễ lại có nghĩa là khủng bố. Trước là có sợ hãi, sau là không có sợ hãi. Vì tất cả chúng sinh có sự sợ hãi cho nên chẳng được nơi không có sợ hãi, duyên sinh ngã mạn, ngã chấp, tự cao, khủng bố khiến lìa sự có sợ mà được sự không sợ hồng, sa phả tra dã tàn hại phá chướngsa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ BHṚ SARVA BHAYA.

TRĀSANI HŪṂ SPHAṬYA SVĀHĀ.

Đại Thế Chí Bồ Tát Chân Ngôn là: Ma hạ sa thái ma bát la bát đá: Mahā sthāma prāpta.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam tham nhiêm nhiêm nghĩa là sinh, lập lại hai lần, trên sinh phiền não. Thứ hai sinh sở tri chướng. Nhập vào a tự môn liền chẳng sinh. Bên trên có điểm đại không, ấy là trừ hai chướng được sinh đại không sách chủng tử của nghĩa chẳng động.

Pháp động có sinh diệt, trải qua động, chẳng động đều là tướng chẳng an, bên cạnh thêm hai điểm đồng với Niết Bàn. Tức là nghĩa trụ bền chắc, dùng lìa hai chướng đồng với đại không như Chư Phật trụ sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ SAṂ JAṂ JAṂ SAḤ SVĀHĀ.

Da Du Đà La Bồ Tát Chân Ngôn là:

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam diễm chủng tử dã du đà la dã sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ YAṂ YAŚO DHARAYA SVĀHĀ.

Bạch Xứ Tôn Bồ Tát Chân Ngôn là: Bán noa la phộc tất nễ: Pāṇḍara vāsini.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam bán chủng tử đát tha nghiệt đa thể Như Lai vĩ sái dã cảnh giới tam bà phệ sinh, từ ấy sinh vậy bát na ma hoa trắng mang lý nễ vào làm vòng hoa, vật nghiêm thân. Đây tức hay sinh ở công đức của Chư Phật dùng để trang nghiêm pháp thân sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ PAṂ TATHĀGATA VIṢAYA SAṂBHAVE PADMA MĀLINI SVĀHĀ.

Mã Đầu Minh Vương Chân Ngôn là: Hạ dã ngật lý phộc Hayagrīva ăn nuốt hết vô minh, các chướng.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam ham chủng tử hồng khủng bố khư na dã ăn nuốt các chướng bạn nhạ đánh phá tát phả tra dã phá vỡ khiến hết sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ HAṂ HŪṂ KHADAYA BHAṂJA SPHAṬYA SVĀHĀ.

Chư Bồ Tát Sở Thuyết Chân Ngôn là: Minh trụ tại đây, tên là dã thỏ cật.

Đa mạo địa tát đát phộc.

Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam, cật xoa noa đa la, diêm kiếm.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ KṢAḤ ḌATARA YAṂ KAṂ.

Địa Tạng Chân Ngôn là: Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam.

Ha ha ha Ba Nhân là: Nhân của Thang Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Phàm các Chân Ngôn tự nói Đức của Bản Tôn. Đây là tổng mọi Đức của Địa Tạng Bồ Tát tố đát nỗ diệu sắc thân. Vì tự thân cực tịnh nên gọi là diệu sắc thân, tức pháp thân vậy sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ HA HA HA SUTANU SVĀHĀ.

Chư Phụng Giáo Giả Chân Ngôn là: Tên gọi là Chỉ Ca La Kiraṇa.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam. Địa, thất lý, ham, một lam, sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ DHI ŚRĪ HA BRAṂ.

Phật Tử! Hãy lắng nghe

Tiếp đông, viện thứ ba

Thí Nguyện Kim Cương Đàn

Cùng quán khắp bốn phương

Ấn Kim Cương hộ vệ

Nên ở chính giữa làm

Hỏa sinh mạn đồ la

Trong tim lại an trí

Hoa sen xanh diệu thiện

Trí Giả Mạn Thù Âm Mañju ghoṣa

Bản Chân Ngôn vây bọc

Như pháp bày chủng tử

Mà dùng làm chủng tử

Lại ở bốn phương bàng

Dùng sen xanh nghiêm sức

Vẽ làm chúng cần dũng

Trước an diệu cát tường Mañju śrī

Thân hình màu uất kim màu vàng nghệ

Đỉnh đội mão ngũ kế năm búi tóc

Giống như hình đồng tử

Tay trái cầm sen xanh

Trên hiển Ấn Kim Cương

Mặt hiền từ mỉm cười

Ngồi trên hoa sen trắng

Diệu tướng, hào quang tròn

Ánh sáng trợ chung quanh

Mà trụ Phật gia trì

Thần lực Tam Muội Vương

Với vô lượng quyến thuộc

Quán Tự Tại, Phổ Hiền

Đối diện hộ đối hộ

Nhạ dã, vĩ nhạ dã

Đồng mẫu lỗ, nhĩ đa

A ba la nhĩ đa.

Bắc phía Bắc Quang Võng Bồ Tát

Bảo Quan Bồ Tát

Vô Cấu Quang Bồ Tát

Nguyệt Quang Bồ Tát

Ngũ Kế Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

Vành trăng cửa Nam

Ô Ba Kế Thất Nễ Bồ Tát

Phụng Giáo Bồ Tát

Hai Sứ Giả của Văn Thù

Câu Triệu, bốn Phụng Giáo

Thanh Liên Hư Tâm Hợp.

Hỏa Luân ngón giữa giữ lưng thủy ngón vô danh.

Hai phong hai ngón trỏ vịn không giáp móng ngón cái.

Hữu bên phải Quang Võng Bồ Tát

Cầm giữ mọi lưới báu

Mọi loại Diệu Anh Lạc

Trụ tòa hoa sen báu.

Mà quán Phật Trưởng Tử con trưởng của Đức Phật.

Định quyền quyền trái cầm câu ấn

Bảo luân ngón cái vịn giữa hỏa ngón giữa

Bảo quan cầm ấn báu

Hữu Liên Hoa sen bên phải Vô Cấu Quang

Hoa sen xanh chưa nở

Duỗi Ấn trước hơi co như ánh sáng của thân Phật

Kế thiết nễ cầm đao

Tuệ quyền quyền phải dựng phong ngón trỏ hỏa ngón giữa không.

ngón cái đè móng địa ngón út thủy ngón vô danh như thế nghĩ.

Ô ba kế thiết nễ

Quyền trước, hỏa luân ngón giữa đâm không ngón cái đè móng phong.

Ngón trỏ địa ngón út thủy ngón vô danh

Địa tuệ giữ tràng ấn.

Định quyền quyền trái dựng địa ngón út thủy ngón vô danh không ngón cái đè phong ngón trỏ hỏa ngón giữa.

Chất đa la đồng tử.

Hữu quyền quyền phải phong luân ngón trỏ trượng dựng như cây gậy triệu thỉnh phong ngón trỏ làm câu móc câu ngoại quyền.

Tiếp năm loại phụng giáo

Bất tư nghị đồng tử

Định tuệ hai tay nội phộc quyền.

Không ngón cái vào lưng móng phong ngón trỏ.

Như vậy năm sứ giả

Năm loại phụng giáo giả

Hai chúng cùng vây quanh

Thị vệ đấng vô thắng.

Văn Thù tam bố tra chưởng, hai hỏa hai ngón giữa đè ngược lưng hai thủy hai ngón vô danh hai phong hai ngón trỏ vịn không luân ngón cái.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Chân Ngôn là Mãn Tố Thất Lý Một Đà Nẵng: Mañju śrī buddhana.

Nẵng mạc tảm mạn đa một đà nam. Man, hệ hệ hô triệu. Tiếng Ha là Nhân, ấy là lìa hai Nhân, vượt cảnh giới của Nhị Thừa.

Hệ hệ bậc đồng tử trụ đạo giải thoát, nhớ lại nguyện đã lập xưa kia đi đến giáng xuống câu phá toái ma thể la bốn ma ca đồng tử phá hoại các ma vĩ mục cật đế giải thoát bát tha tất thể đa thiện đạo ngôn trụ ở chốn nào, ấy là đạo giải thoát vậy sa ma la nhớ lại sa ma la nhớ lại bát la để nhiên sở nguyện của Tôn Giả, tất độ tất cả chúng sinh như Ta không có khác.

Ngày nay nhớ lại lời thề xưa kia sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ MAṂ HE HE KUMĀRAKA VIMUKTI PATHA STHITA SMARA SMARA PRATIJÑĀṂ SVĀHĀ.

Quang Võng Bồ Tát Chân Ngôn là: Tên gọi là nhạ lý ninh bát la bà jālini prabhā vì nhiếp các hàm thức khiến trụ vào địa giải thoát, chiêu vời chư Phật đại đức, tức là nghĩa câu câu triệu.

Nẵng mạc tảm mãn đa một đà nam. Nhiêm chủng tử hệ hệ câu ma la nghĩa như lúc trước mang dã huyễn nghiệt đa biết vậy. Biết tất cả pháp như.

Huyễn sa phộc bà phộc tính tất thể đa trụ, biết rõ các pháp như huyễn, trụ trong.

Thật Tính của Chư Phật sa phộc hạ.

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ JAṂ HE HE KUMĀRA MĀYĀ GATA SVABHĀVA STHITA SVĀHĀ.

***