Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Dần đủ Tất Cả Trí đức

PHẬT THUYẾT

KINH DẦN ĐỦ TẤT CẢ TRÍ ĐỨC

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẨM SÁU

TRỤ MỤC KIẾN
 

Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Các Phật Tử hãy lắng nghe! Bồ Tát Đại Sĩ đã tu tập thành tựu trụ thứ năm, vượt lên nhập trụ thứ sáu thì phải thực hành mười pháp.

Mười pháp đó là gì?

Biết các pháp đều không có tưởng, đều bình đẳng. Các tướng bình thản không có hình loại. Không nơi thọ sinh, siêu tuyệt không ai bằng, không nơi phát khởi nên nói là bình đẳng.

Các pháp rất thanh tịnh, đều định chân chánh, đều không buông lung, không giong ruổi, không hợp thì chẳng ứng, không phải hai, không phải một, vắng lặng bình thản, không ai sánh bằng.

Giống như ảnh mộng huyễn, như tiếng vang trong núi, như trăng dưới nước, các hiện tượng đều như huyễn hóa. Thực hành đạo nghiệp không có hai ý. Đó là mười pháp. Từ địa thứ năm đạt địa thứ sáu, thực hành những hạnh đó rồi, tự quán sát tất cả các pháp, suy lường xét nét thật kỹ để không lầm lẫn, đạt trụ tự nhiên mục kiến thứ sáu.

Vì thành tựu trụ này, nên đạt thông lợi pháp nhẫn nhu thuận, không bị mê hoặc, nhưng chưa đạt tới chỗ pháp vô sinh nhẫn, dần dần từng chút mới tự nhiên vào được khắp mọi nơi của tất cả các pháp, rồi tiến lên đến đại từ là cao tột hơn hết.

Hiểu rõ đại từ, đủ đại bi, hiểu rõ năm nẻo, cõi đời, không tan, hợp. Quán sát được như vậy, gọi là Trụ thứ sáu. Lại biết được tập nghiệp ở thế tục đều dựa vào nhân ngã mà sinh ra. Vì biết việc dâm dục ở cõi đời là không thật có.

Kẻ ngu si chấp trước nhân ngã, kẻ vô trí nhân đó cũng thành ngu tối, ham thích nơi thọ sinh, tích tụ tạo nghiệp bất thiện, tâm chí luôn buông thả, đem lại bao nhiêu là tà hạnh, tội phước tăng giảm, vạn vật thì vô thường, từ đó sinh ra bao điều vô ích.

Phải hiểu rõ hạnh này để khéo tự mình tu tập tâm, tiêu trừ các lậu, chí chân vốn không, đức lành sẽ từ đó phát ra: Phải qua lại, dạo khắp trong cõi báo ứng sinh tử, coi hành nghiệp là ruộng, thần thức là hạt giống, vô minh là gốc, còn nếu là ngu tối, thì coi ái là sự thấm nhuần, chí tánh thì cống cao tự đại, nuôi lớn tà kiến và lưới kết sử, đó là nguyên nhân tự sinh danh sắc.

Danh sắc lớn dần thành các căn. Các căn đã thành, thì phát sinh hàng ngàn các loại phiền não. Phiền não đã phát khởi, khiến bệnh tật xảy ra. Từ bệnh tật đó mà có mừng vui, tức thọ lãnh lợi ích. Do nhận những lợi ích mà thành hữu, niệm cũng từ đó mà thành. Do niệm đã thành nên phát sinh năm ấm. Hình thể của năm ấm, tiến đến năm loài, từng chút từng chút chìm đắm trong sinh.

Sự đắm trước sinh khi đã đầy đủ, thì phát sinh mọi khổ đau: Kêu gào, khóc than, âu lo, mọi phiền não thiêu đốt. Các nghiệp bất thiện, vốn không có hình tướng, không thể hiểu được, không thể phân biệt nhầm lẫn, tất cả đều tự nhiên.

Vì ít huân tập những điều vô ích nên đạt được pháp này. Có hiểu rõ nghĩa này thì không còn tham mến. Bồ Tát cũng vậy, thích Nhu thuận, quán sát mười hai duyên, tự suy xét kỹ gọi là chí thành, để hiểu được sự sinh này cuối cùng không có tuệ.

Nghiệp vô minh vốn là thanh tịnh, thành tựu báo ứng, từ sự thực hành mà thành. Thần thức ở đời trước, bạn của thần thức là bốn ấm thọ. Từ đó có sự mê hoặc danh sắc, có lòng thương ở lục nhập, có cảnh giới cho các căn. Thần thức vừa hình thành là có các lậu làm bạn, thành các bệnh khổ. Ân ái càng nhiều thì thọ càng lớn.

Vì giữ gìn cái đã nhận nên thành lậu nghiệp. Từ nghiệp tạo ra và làm lớn thân ấm. Từ sinh đến già suy, thân ấm sẽ hư hoại, đưa đến chết, đó là điều rất ngu tối, thật đáng kinh sợ! Từ những nguy hại này tạo thành lưới trói buộc, đến khi có lời lẽ thì sinh ra năm căn, khổ phát khởi từ ý căn, từ đó có ưu sầu, buồn khổ nhiều tạo thành thọ hữu. Đó là nhân duyên nên sinh vào nơi khổ vậy. Phải tự suy xét hạnh nghiệp đã tạo ra, vì mọi tạo tác đều dựa vào đó.

Vì biết tạo tác là phải có tác giả, nhưng xét sự tạo tác ấy lại không có tạo tác, từ đầu đến cuối không có tướng, cũng không nắm bắt được. Lại suy xét đến ba cõi, cũng đều do tâm. Xét chúng cũng từ mười hai nhân duyên sinh khởi. Như Lai chí chân đã thông hiểu chỗ quay về của năm nẻo, hết thảy chỉ một tâm, một loài, đồng thời thành tựu.

Vì sao?

Vì đều do các căn. Tâm sinh tham dục đều do thức. Sự ngu si sinh tử đều từ vô minh. Tâm là bạn của danh sắc tạo ra mê hoặc. Từ danh sắc có sáu nhập, rồi làm bạn với đau khổ. Từ đau khổ có yêu thích. Vì không bỏ thọ nên ái, sinh ra các tai nạn.

Do các duyên hợp mà có sở hữu, từ chấp thủ mà có sinh, trói buộc nhau đưa đến già chết. Từ trong thần thức đã có hữu, đã phân biệt biết rõ danh sắc duyên nhau và danh sắc ấy đều có chỗ quy hướng. Sáu căn nhập sáu cảnh nên thấy được cảnh giới và có thể nhập vào chỗ lặng yên.

Nhưng do duyên tích tập mà có ý niệm sinh ra thọ. Thọ tạo ra nghiệp thiện ác, tốt xấu. Theo duyên ân ái mà những việc tham dâm, vui khổ cảnh trần lao mới có. Cũng theo duyên ái mà bị trói buộc trong ngục. Rồi từ hữu đưa đến sự thọ sinh khác.

Hiện tại sinh ra cũng không biết từ đâu đến, chỉ biết sinh ra nhân duyên, từ sinh đã có năm ấm, rồi duyên cho đến già. Khi đã già suy thì các căn chín mùi nên có chết. Từ khi bắt đầu cho đến chết, có mười hai việc. Nơi bắt đầu phát sinh lại là thân năm ấm hư hoại, nhưng không đoạn được, chưa bao giờ chấm dứt.

Từ vô minh có hành, danh sắc, sáu nhập, dần dần có ái, thọ, hữu, sinh, già, bệnh chết ưu bi khổ não. Vì duyên của vô minh không có đoạn dứt, nên không hiểu thấu đó là hữu dư. Vô minh bị diệt trừ thì các hành cũng diệt. Vì có vô minh nên có hữu dư. Vì vô minh mà thọ nhiều ân ái, nên thêm nhiều trần lao, không bao giờ đoạn dứt. Đã tạo nghiệp phải thọ báo ứng.

Báo ứng xoay chuyển qua lại, không thể nhổ được gốc, không trừ hết các tai ương, cho nên khổ đau khác sinh ra, không bao giờ ngừng nghỉ. Vì vô minh, nên bị trói buộc lưu chuyển trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hãy đoạn trừ ba chuyển. Ba chuyển không có ngã.

Phải đoạn bỏ nhân ngã thì vô minh mới diệt, nghiệp tự nó cũng không còn nơi chốn. Ví như nhà cỏ, hoặc ở đó để được thanh tịnh, hoặc sẽ có phiền não đau khổ, vô minh là vậy, đều từ đó mà có hình. Xưa vốn không có đau khổ, chỉ vì duyên thức mà có thọ. Đó là nghiệp trong hiện tại. Từ ái mà có hữu đó mà nguồn gốc của thọ mạng trong vị lai. Từ đó ngược lên tất không còn chỗ thọ sinh do vô minh đưa đến.

Vô minh diệt thì các hành diệt, gọi là đoạn dứt. Có ba khổ hoạn và mười hai báo ứng từ nhân duyên sinh. Từ vô minh đến lục nhập có thể diệt thì các hành đều diệt. Nhân đã không còn thì các hành cũng như vậy. Ngoài hai việc trói buộc là khổ và thọ, còn có khổ khác như biệt ly.

Vô minh diệt thì các hành diệt, ba khổ được đoạn trừ hẳn. Từ vô minh có hành, từ nhân duyên tạo tác mà có hành nghiệp, đó là hữu dư. Vô minh diệt thì các hành sẽ diệt, đó là hữu dư. Vì tất cả các hành đều là hữu dư nên có vô minh hành. Hãy dùng phương tiện quyền xảo mở dây trói lớn.

Vì là hữu dư nên có luân chuyển. Hãy quán sát kỹ trở lại về sự diệt tận của mười hai duyên khởi. Từ hữu dần dần có chấp trước. Hãy bảo vệ thân, khẩu, ý. Nhờ đó tự tạo duyên, đạt cho được sự cúng dường, để không còn nghiệp sinh, không còn luân chuyển trong ba cõi, không quay lại để thọ lấy nghiệp cũ, không còn chịu ba khổ, tu hành theo sự báo ứng của các duyên khởi như vậy.

Giả như có người mang vác nặng mà được bỏ xuống vậy. Sự quán sát là không cùng tận, còn vô sở hữu thì tận. Sự quán sát đó là do duyên này. Duyên vừa sinh khởi là biết sẽ có việc khác xảy ra, tất cả đều biết rõ. Vốn không nhân không ngã, không thọ mạng, tự nhiên, trống không, vắng lặng, điềm nhiên. Có tạo tác, phải có quả báo. Đạt pháp môn không giải thoát, tâm tánh luôn nhớ pháp này.

Như vậy chỗ ở hiện tại sẽ chấm dứt, không còn hữu dư. Chuyên tâm suy xét pháp môn Vô tướng giải thoát, để biết cho rõ mà không còn ham thích. Chỉ có tâm từ bi lớn mới truyền dạy giáo hóa cái gốc cũ của chúng sinh. Đó là tâm ôm giữ pháp môn Vô nguyện giải thoát. Phải luôn phụng hành.

Ba pháp môn giải thoát này, sẽ trừ được hành của ngã và thấy được tướng tạo tác, bỏ được sự đắm trước các tướng có, không, nuôi lớn thêm tâm từ về ba pháp môn ở trên, tinh tấn, giáo hóa phàm phu và những người chưa thành đạo, làm cho họ được thông đạt. Nhờ thành tựu liền đạt được pháp hội, chuyển thông pháp hội, không còn tới lui, đầy đủ sự hòa đồng, hòa hợp nhân ái, thành tựu bất thoái.

Nhờ thấy như vậy, nên trừ được các bệnh này mà chúng tập họp lại sẽ đưa đến hoạn nạn, giống như nước sông, chảy mãi không ngừng. Tâm phải tự nghĩ không còn nghiệp nào khác là phải quyết tu tập vắng lặng để khai hóa chúng sinh. Là đệ tử Phật, nếu thực hành được như vậy thì dù ở trong vô số tai ương, độc ác của cõi đời vẫn tự tại mở lối đưa đường.

Nếu quán sát nó vốn thanh tịnh, không khởi, không diệt, phải dắt dẫn để thực hành tâm từ, tùy thuận giáo hóa chúng sinh, hành trí Ba La Mật rộng lớn, hoặc pháp môn tuệ vô ngại, dần dần chí tu thành thục, học hỏi thông suốt, hợp với đạo sáng, thành tựu đại nghiệp chánh đạo, lợi ích đúng thời, sống đúng đạo nghĩa, không hợp cùng tà nghiệp.

Nhân đó lại quán sát tịch diệt tự nhiên, cũng không trụ vào sự đầy đủ của đạo phẩm ấy, mà tìm cách gần để tự hiểu rõ trụ địa mục kiến, khiến cho được nhập vào hư không, xét rõ được định ý.

Định ý đó là nhập hư không tự nhiên, hư không định, cứu cánh không định, đệ nhất hư không định, là vô cực hư không định ý, là hội họp hư không định ý, là sự phụng hành hư không định ý, là chân vô niệm hư không định ý, là đẳng sát hư không định ý, là ly nghiệp vô vật hư không định ý. So sánh như thế liền đạt được vạn pháp môn tam muội hiển hiện tự nhiên, vô tướng, vô nguyện cũng vậy.

Lại chuyên cần tinh tấn tu tập, gần với các trụ của Bồ Tát, thì tâm sung mãn, tánh vững chắc, tâm ý rõ ràng, tánh hạnh chân chánh, tánh sâu xa, ý không lay chuyển, không ngừng nghỉ, rộng lớn, tâm tư vô hạn, ý ưa thích tuệ, tu tập kết hợp, trí tuệ quyền biến, đầy đủ tánh Bồ Tát.

Dần được thuần hòa, ở mãi trong đạo Như Lai, không còn thoái chuyển, giáo hóa tất cả tà thuyết học thuật, tùy thuận tuệ địa, không đọa trong địa đệ tử Duyên Giác, tinh chuyên tăng trưởng, thấy Phật tuệ không gì sánh bằng, bỏ việc trần lao, đạt chí bền vững, trụ tuệ Bồ Tát, tu tập phụng hành thành thục không có tướng, vô nguyện, kế thừa giáo pháp, tùy thuận tuyên thuyết, đủ trí tuệ quyền biến, không hủy phá pháp hành đạo phẩm.

Bồ Tát trụ địa Mục kiến thì càng tăng trưởng trí Ba la mật, lợi ích cũng khác nhiều. Hiện tại thành tựu thông lợi ứng đạo, mau đạt được nhẫn thứ ba là nhu thuận. Đó là tùy thuận mà chuyển đạo pháp.

Bồ Tát trụ địa Mục kiến này, thấy vô số trăm ngàn Chư Phật, tìm cách để cúng dường, đem tâm phụng sự y phục, thức ăn, thuốc men, giường chiếu, xuất gia làm Sa Môn, ở chỗ Chư Phật để tu tập, nghe thọ Kinh Điển, nghe rồi dùng trí tuệ mà phụng hành, siêng tu thông đạt, cầu cho hiểu được nghĩa mà thực hành, dần dần tu tập được pháp tạng của Như Lai, đạt pháp minh lớn, trải qua vô số kiếp, thành tựu được cái gốc công đức hiển hiện sự toại nguyện.

Phật Tử! Ví như ngọc báu lưu ly, nếu tẩy rửa trong sạch thì phát ánh sáng rực rỡ. Cũng thế, Bồ Tát trụ ở địa mục kiến này, phước đức ngày càng tăng trưởng, hiển lộ, thực hành quyền biến. Nhờ công đức đó làm căn bản, tăng dần đến chỗ vắng lặng nên đi lại không cần bạn đồng hành.

Phật Tử! Ví như ánh trăng sáng chiếu tâm chúng sinh, làm cho ai nấy đều bình thản. Như cung điện một mình chế ngự bốn ngọn gió lớn, mà không càn gì cả! Cũng thế, Bồ Tát trụ địa mục kiến, công đức ngày càng thêm lớn, soi rọi trừ sạch trần lao cho vô số chúng sinh, tẩy sạch tỳ vết của ái dục, thống lãnh bốn ma, đơn độc không bè bạn.

Phật Tử! Bồ Tát muốn tiến gần để đạt được trụ địa Mục kiến thứ sáu này, thì phải tập trung dẫn dắt, sự tu hành phải có khả năng biến hóa, hoặc làm Thiên Vương, thấy rõ và hàng phục được bốn đại, một mình đi trong ba cõi, không bè bạn. Thanh Văn, Duyên Giác không dám cật vấn.

Luôn thực hành công đức bố thí ái kính, đem lợi ích bình đẳng giáo hóa chúng sinh, không bỏ Phật Đạo, để luôn được đầy đủ. Luôn nghĩ về nhất thiết trí có phải là chí nguyện cao tột số một của chúng sinh, để có uy lực mạnh mẽ mà dắt dẫn khai hóa, thành tựu được trí rộng lớn ấy.

Vừa phát tâm so sánh như vậy, siêng năng không ngừng. Trong chốc lát đã đạt trăm ngàn các định tam muội, khai hóa vô số chúng Bồ Tát, thấy được nguyện lực của Bồ Tát quyến thuộc rất đặc biệt, rất cảm động, không sao tính đếm được. Đã tu tập ở vô số ức kiếp, không sao ví dụ được.

Bấy giờ, Bồ Tát Đại Sĩ Kim Cang Tạng muốn diễn giải rõ chỗ quy hướng của thật nghĩa, nên nói kệ rằng:

Chính vì được đầy đủ

Đạo Địa Trụ thứ năm

Pháp là điềm ứng tốt

Vô tướng không chỗ sinh

Thanh tịnh không phát khởi

Là vì không buông thả

Phụng hành ý Thánh tuệ

Liền nhập Trụ thứ sáu

Các pháp vốn vắng lặng

Tịch tĩnh không niệm tưởng

Tự nhiên như huyễn hóa

Giải thoát khỏi sinh tử

Đạt được nhẫn nhu thuận

Pháp vốn không tán loạn

Trí tuệ càng thù thắng

Siêng tu sáu trụ địa

Thông đạt trụ Nhu thuận

Thâm nhập tuệ lực sáng

Quán sát tất cả cõi

Từ tập nhân có quả

Do ngu si mờ tối

Mà có vật, người, ta

Muốn độ thoát chúng sinh

Nên siêng năng tu tập

Từ nhân duyên giảng trạch

Gốc ngọn đều trống không

Hạnh nghiệp và báo ứng

Hòa hợp hay tranh loạn

Nếu đã có tạo tác

Thì phải chịu quả báo

Phân biệt gần gũi chúng

Như ong hút mật hoa

Giả sử dùng tuệ quán

Gốc ngọn là tối sáng

Tư tưởng duyên tội phước

Chịu quả vì ngu si

Do có tư tưởng này

Danh sắc đồng thời theo

Vì thế có hoạn nạn

Thành tựu khổ năm ấm

Do tâm ngã sở này

Rơi vào trong ba cõi

Lại nữa mười hai xứ

Đều từ một tâm sinh

Từ tham dâm mà có

Tâm cũng hành theo đó

Sự chấm dứt cũng vậy

Từ tâm lầm lẫn này

Vì vô minh ngu si

Tạo ra mười hai khổ

Chính vì thân ngu tối

Luôn tạo ra vọng tưởng

Cứ thế dần đi đến

Già, bệnh, thân hoại diệt

Tất cả các hoạn nạn

Dứt, khi vô minh dứt

Do duyên vô minh này

Nên không đoạn trừ hết

Tư tưởng nếu tiêu diệt

Nhân duyên sẽ đoạn trừ

Ân ái tạo ngu si

Làm nhân cho khổ não

Tai họa khổ đau này

Là cái hại chấp giữ

Từ ngu si đưa đến

Nên có khổ sinh tử

Do xúc nên sinh thọ

Từ khổ càng khổ thêm

Lại thọ bao nhiêu thân

Khổ đau càng thêm lớn

Đoạn trừ hết khổ não

Thì không còn nhân ngã

Vốn không có khổ đau

Cũng chẳng có vọng niệm

Chính vì thần thức này

Qua lại trong hiện tại

Ái hành ở vị lai

Nên thành tựu khổ não

Những gì cần tiêu diệt

Vì nhân duyên ngu si

Quán sát trừ đoạn hết

Thì sẽ được giác ngộ

Nhờ chán xa hoạn nạn

Diệt trừ các nhân duyên

Từ những nhân duyên này

Đoạn trừ các duyên sinh

Như quán kẻ nghèo hèn

Tự nhiên và trống không

Nhu hòa và ngu tối

Nương theo nghiệp ý ấy

Đến lúc trừ hết si

Mới đoạn được các duyên

Nhân duyên sâu xa đó

Biết chúng rỗng vô tướng

Quán sát có mười việc

Hiểu chúng không phân biệt

Suy tính đến các cõi

Tội phước ở vị lai

Ba loại tài nghiệp này

Từ xưa dần tăng trưởng

Phân tích ba khổ hành

Nơi sinh khởi, diệt tận

Trừ sạch không sở hữu

Nhu thuận hiểu nhân duyên

Nhân duyên sinh như vậy

Bình đẳng nhập thông đạt

Như huyễn hóa hiện khởi

Nghiệp ái dục như vậy

Như cảnh thấy trong mộng

Các hình ảnh cũng vậy

Kẻ ngu mê si dại

Tự nhiên như sóng nắng

Hiểu rõ hành như thế

Trí hiểu là trống không

Các duyên làm lo sợ

Biết nó tướng không bền

Nhờ hiểu được như thế

Nên không chí mong cầu

Chỉ một nguyện từ mẫn

Thương yêu các chúng sinh

Chí nguyện thật rộng lớn

Thực hành pháp giải thoát

Tâm lại càng thương yêu

Luôn nghĩ công đức Phật

Siêng tu lo chúng sinh

Quán sát nguồn gốc chúng

Tình cảm không hoạn nạn

Đủ vô lượng công huân

Hành đủ không Tam Muội

Biết thấu trăm ngàn kiếp

Kẻ dũng mãnh như vậy

Bậc nhu thuận pháp nhẫn

Trí tuệ hợp vô vi

Giải thoát là báu vật

Tánh rộng lớn như vậy

Cúng dường Bậc Thánh Giả

Vắng lặng trừ rối loạn

Mạng chí thuận tối thắng

Thành tựu rõ định ý

Lại càng thêm thanh tịnh

Như lưu ly vàng ròng

Mài dũa càng sáng rỡ

Soi chiếu tâm chúng sinh

Như mặt trăng sáng tỏ

Gió qua lại bốn xứ

Một mình không ai bằng

Vượt đường tắt ma nghiệp

Thù thắng sáng vi diệu

Tiêu diệt các trần lao

Đốt cháy những khổ não

Làm bậc thầy cao thượng

Tuyên thuyết trụ tuệ này

Giáo hóa lập ý đạo

Diệt trừ tâm phóng túng

Phụng trì trí tuệ Thánh

Diễn giảng các Kinh Pháp

Kẻ dũng đã vượt khởi

Thanh Văn không theo kịp

Vừa phát tâm tinh tấn

Đã được an trụ nghiệp

Đời trước đã đạt được

Trăm ngàn ức tam muội

Nháy mắt gặp vô số

Chư Phật trong mười phương

Đức soi sáng thế gian

Như trăng rằm mùa thu

Xinh đẹp rất sáng tỏ

Thanh Văn chẳng theo kịp

Dũng mãnh tự diễn giảng

Trụ địa thứ sáu này.

Lúc ấy, Chư Thiên nghe pháp, tâm bình thản, trụ trong hư không, rải đủ các loại hương hoa trân bảo, khen ngợi tán thán, dùng đủ lời vi diệu nhu hòa, thanh tịnh, đầy đủ công đức đáng kính, khen: Lành thay!

Tư duy về lợi ích tối thượng, tích lũy công đức, đạt tuệ tự tại, hạnh thù thắng cao vời vợi giống như hoa sen, vì thương yêu chúng sinh mà thọ hạnh nghiệp siêu tuyệt, không thể so lường. Chư Thiên hiện thần, trụ trong hư không, làm mưa hoa rải đủ các loại hoa thơm, tiêu trừ trần cấu, ưu sầu, thô tế.

Nói lời hay lạ âm vang bay xa, làm thông đạt lợi ích thứ nhất của sự thanh tịnh tối thượng: Chúng ta đã nghe Đạo Địa thông suốt. Rồi họ lại trổi nhạc hay, các ngọc nữ của Cõi Trời tâm vui mừng khôn tả.

Ở trước Chư Thiên, phụng Thánh chỉ của Phật, mở hết các cửa, trừ sạch tối tăm, tâm sáng như Mặt Trời, phụng hành pháp tối tôn. Lúc ấy, ở Thế Giới này có vô số phàm phu và Thánh Hiền, đều vượt khỏi cõi thế, hiển thị phong thái vi diệu nhất, từ xa thấy được thân yên lặng điềm đạm mà hiện hình giống thân nhưng không phải thân.

Đang tư quy về với chánh pháp, tiêu diệt những điều đã định, khiến không còn vọng tưởng. Tiếng hay, mắt sáng, vượt vô số Cõi Phật, cúng dường Chư Phật, phụng sự các Đạo Sư, tự quán sát thân mình, nghĩ nhớ tối thắng, bỏ ô uế, đạt tuệ tự tại, khai hóa chúng sinh, không còn tưởng nhân ngã, phụng hành tinh tấn, hợp với hạnh nghiệp. Các Chư Thiên ngọc nữ đều thích thật nghĩa của vắng lặng.

Quán sát Đấng Nhân Trung Tôn, ai nấy đều vui mừng, thưa với Thế Tôn, nhờ cúng dường Phật để thăng đạt được tự tại, xin giảng thuyết, đặc biệt giải nói chánh pháp, công huân thù thắng sẽ như biển để mong được hiển bày ở trụ thứ bảy.

***