Kinh Đại thừa

Bộ Niết Bàn

DIỆP Y QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT KINH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Bạc Già Phạm Bhagavaṃ: Thế Tôn ngự tại Thế Giới Cực Lạc Sukhavati cùng với các đại chúng diễn nói Diệu Pháp Saddharma Thời Kim Cương Thủ Bồ Tát Vajra pāṇi bodhisattva từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải.

Quỳ hai gối sát đất đỉnh lễ chân của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát Avalokiteśvarāya Bodhisattvāya mahā sattvāya rồi bạch với Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Thánh Giả trụ Tam Muội Đại Bi Giải Thoát Như Huyễn hay trừ khổ não của tất cả hữu tình, ban cho lợi ích an vui của Thế Gian Loka và Xuất Thế Gian Lokottara.

Giả sử tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên Thế Giới đồng thời có mọi thứ khổ não với tám nạn khổ, hoặc hy vọng quả báo của thế gian và xuất thế gian nếu có thể một lòng xưng niệm danh hiệu Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, ứng thời chẳng bỏ thệ nguyện đại bi liền hiện mọi loại thân hay mãn thắng nguyện của tất cả chúng sinh.

Cũng hay hộ trì quốc giới, nhổ bứt nạn khổ. Cũng hay nhiếp thọ, dưỡng dục, tăng trưởng cát tường. Cũng hay che chận khổ hình, tù cấm. Cũng hay tiêu trừ trùng, độc, quỷ mỵ với các bệnh ác. Cũng hay vào trận, cấm chế đao binh. Cũng hay tiêu trừ tai nạn nước lửa. Cũng hay đoạn trừ yểm đảo, chú trớ. Cũng hay kết hộ phương ngung địa giới.

Nguyện xin Thánh Giả thương xót tất cả hữu tình, Quốc Vương, nam nữ ở đời vị lai… nếu tịnh tín Tam Bảo, hộ trì Phật Pháp kế thừa nghiệp Vua, đừng để cho đoạn tuyệt. Vì bọn họ nên nói phương tiện gia trì của Quỹ Nghi Đà La Ni.

Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ chân của Đức Phật, chắp tay hướng Phật rồi bạch Phật rằng: Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót gia trì.

Con có Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát Đà La Ni hay trừ tai họa cho tất cả hữu tình như: Bệnh tật, tằn tiện đói khát, giặc cướp, binh đao, hạn hán, nước chẳng điều hòa, tú diệu mất thứ tự. Cũng hay tăng trưởng phước đức, quốc giới phong ích, nhân dân an vui.

Nay con muốn nói. Nguyện xin Đức Thế Tôn nghe hứa!

Đức Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Tùy ý ông nói.

Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ Tát nương theo uy thần của Đức Phật mà nói Đà La Ni là:

1. Nẵng mô la đát nẵng đát la dạ dã.

NAMO RATNA TRAYĀYA.

2. Nẵng mô a nhĩ đá bà dã.

NAMO AMITĀBHĀYA.

3. Đá tha nghiệt đá dạ, la ha đế, tam miệu tam một đà dã.

TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA.

4. Nẵng mô a lị dã phộc lộ chỉ đế thấp phộc la dã.

NAMO ĀRYA AVALOKITEŚVARĀYA.

5. Mạo địa tát đát phộc dã.

BODHI SATTVĀYA.

6. Ma ha tát đát phộc dã.

MAHĀ SATTVĀYA.

7. Ma ha ca lỗ ni ca dã.

MAHĀ KĀRUṆIKĀYA.

8. Nẵng mô ma hạ sa tha ma bát la bả đá dã.

NAMO MAHĀ STHĀMA PRĀPTĀYA.

9. Mạo địa tát đát phộc dã.

BODHI SATTVĀYA.

10. Ma ha tát đát phộc dã.

MAHĀ SATTVĀYA.

11. Ma hạ ca lỗ ni ca dã.

MAHĀ KĀRUṆIKĀYA.

12. Phộc ma ninh đát noan nẵng ma tả nhĩ.

VĀMANĪ TVAṂ NAMASYĀMI.

13. Đát noan nẵng ma tả nhĩ phộc ma ninh.

TVAṂ NAMASYĀMI VĀMANĪ.

14. Tỳ xá chỉ, bát la noa xả phộc lị.

PIŚĀCĪ PALĀŚĀMBARĪ.

15. Bát la noa xả phộc lị, tỳ xá chỉ.

PALĀŚĀMMBARĪ PIŚĀCĪ.

16. Bà nga phộc để.

BHAGAVATE.

17. Bả xả, bả la thâu, bá xả, đà lị ni.

PARAŚU PĀŚA DHĀRIṆĪ.

18. Dạ ninh ca ninh chất.

YĀNI KĀNI CIT.

19. Bà dạ ninh duật đáp bả nễ dã, ma ma ninh duật đáp bả nhiên đế.

BHAYĀNI UTPĀDYA MĀNĀI UTPĀDYANTE.

20. Dạ ca thất chất nễ đa dữu.

YĀḤ KĀŚCIDĪTAYO.

21. Dạ ca thất chất đát ma lị dữu.

YÀH KÀ’SCIT MÀRYO.

22. Dạ ca thất chất ma hạ ma lị dữu.

YEKE CIT MAHĀ MĀRYO.

23. Duệ kế chất noa bát la phộc.

YEKE CID UPADRAVĀ.

24. Duệ kế chất nỗ bá dạ sa.

YEKE CID UPĀYĀSĀ.

25. Duệ kế chất nại địa dã bà phộc.

YEKE CID ADYĀ BHAVĀ.

26. Duệ kế chất nỗ bả tát ngược.

YEKE CID UPASARGE.

27. Ô bả tát nga tam mãn đà phộc.

UPASARGA SAMANTĀ VĀ.

28. Ổn bát nại đế.

UTPĀDYANTE.

29. Tát phộc ninh đá ninh tát phộc sa tỳ.

SARVA NITĀNI SARVA STVAṂ.

30. Tát phệ đế phộc la đa.

SARVETE VĀRATA.

31. Ế vũ bát nhiên đế nẵng.

EBHYA UTPĀDYANTENA.

32. Bán nỉ đa sa đa ná mật nẵng tát để duệ.

PAṆḌITATĀ STHĀNANENA SATYE.

33. Tát để dã phộc kế nẵng.

SATYA Ā.

34. Nhạ, nhạ, nhạ, nhạ.

JA JA JA JA.

35. Ế tỵ thất chỉ bán nỉ đá.

EBHIŚCA PAṆḌITA.

36. Địa sắt xỉ đới, mạn đát la bát nãi.

ADHIṢṬITE MANTRA PĀDAI.

37. Ma ma, tát phộc tát đát phộc nan tả.

MAMA SARVA SATTVĀNĀṂ CA.

38. La ca thương, củ lỗ.

RĀKṢAṂ KURU.

39. Nghê bất tỉnh, củ lỗ.

GUPTIṂ KURU.

40. Bả lị đát la nẫm, củ lỗ.

PARITRĀNĀṂ KURU.

41. Bả lị nghiệt la đát, củ lỗ.

PARIGRĀHAṂ KURU.

42. Bả lị bá la nẵng, củ lỗ.

PARIPĀLANAṂ KURU.

43. Phiến tỉnh, củ lỗ.

ŚĀNTIṂ KURU.

44. Sa lỗ sa để dã dã nẵng, củ lỗ.

SVASTYAYANAṂ KURU.

45. Nan noa bả lị hạ lãng, củ lỗ.

DAṆḌA PARIHĀRAṂ KURU.

46. Thiết sa đát la bả lị hạ lãng, củ lỗ.

ŚĀṢṬRA PARIHĀRAṂ KURU.

47. Vĩ sái nộ sái nam, củ lỗ.

VIṢA DUṢṬNAṂ KURU.

48. Vĩ sái nẵng xả nẵng, củ lỗ.

VIṢA NĀŚANAṂ KURU.

49. Tỷ ma mãng đãng, củ lỗ.

SĪMA BANDHANAṂ KURU.

50. Đà la ni mãng đãng tả, củ lỗ.

DHĀRAṆĪ BANDHAṂ CA KURU.

51. Đát nễ dã tha.

TADYATHĀ.

52. A mật lị đế, a mật lị đố nạp bà phệ.

AMṚTE, AMṚTA UDBHAVE.

53. A thấp phộc sa đảng nghê.

ĀŚASVATAÑGE.

54. Ma ma la, ma ma la.

MĀ MĀRA MĀ MĀRA.

55. Xả ma bát la xả ma.

ŚAMA PRAŚAMA.

56. Đổ nô, vĩ đổ nô.

DHŪNU VIDHŪNU.

57. Đổ lê, mẫu đổ lê, sa phộc hạ.

DHŪLE DHŪ MŪLE SVĀHĀ.

Tâm chân ngôn là: 

Án, bát la noa, xả phộc lị, hồng, phát tra.

OṂ. PALĀŚĀMBARĪ HŪṂ PHAṬ.

Khi Quán Tự Tại Bồ Tát nói Đà La Ni này xong, liền bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện tụng Đà La Ni này một biến tức hộ thân của mình. Nếu tụng hai biến tức hộ bạn lữ. Nếu tụng ba biến tức hộ một nhà. Nếu tụng bốn biến, hộ một tụ lạc. Nếu tụng năm biến, hộ một quốc giới.

Nếu trong nước có bệnh dịch lưu hành, nên lấy một mảnh lụa trắng rộng một khuỷu tay rưỡi, dài hai khủy tay.

Trước tiên khiến người vẽ thọ trai giới khiết tĩnh, dùng nước cốt của Cù Ma Di hòa với một chút Thanh Lục, dùng keo thơm để hòa không được dùng keo nấu bằng da thú. Chọn ngày trực của Quỷ Tú vẽ tượng Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Palāśāmbarī Avalokiteśvara bodhisattva.

Tượng đó làm hình Thiên Nữ, đầu đội mão báu trong mão có Vô Lượng Thọ Phật Amitāyus buddha. Dùng lưu ly, vòng xuyến trang nghiêm thân. Thân có hào quang tròn chung quanh dậy lửa mạnh. Tượng có bốn tay, ngồi trên hoa sen.

Bên phải: Tay thứ nhất để ngang trái tim cầm lá Cát Tường, tay thứ hai tác Thí Nguyện Thủ.

Bên trái: Tay thứ nhất cầm cây búa Phủ Việt, tay thứ hai cầm sợi dây.

Vẽ tượng xong, treo trên cây tre khiến một người cầm giữ. Người cầm cây tre tụng Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni không được gián đoạn. Tiếp thúc giục làm cho cây gậy phát ra âm thanh. Dùng Trích Chỉ Vương chân ngôn gia trì hai mươi mốt biến.

Chân Ngôn là:

Án Trích chỉ, hồng, phát tra.

OṂ. ṬAKKI HŪṂ PHAṬ.

Lại khiến hai người tụng tán, một người tụng Cát Khánh Tán, một người cầm lò hương thiêu đốt An Tất Hương. Dùng Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm chân ngôn gia trì hương ấy một trăm lẻ tám biến, sau đó lấy hương đốt, tỏa khói đừng để ngưng tắt.

Một người cầm Hiền Bình chứa đầy nước thơm cắm cành cây có đầy hoa quả. Khiến người cầm bình đứng phía trước dẫn tượng dầu tiên.

Hai người thổi loa dẫn vào cung Vua với cờ cắm thành vòng, đi ra từ cửa Nam, quanh theo hướng Đông rồi vòng vào bên trong Thành, đi một vòng quanh phường chợ rồi theo cửa Nam của thành đi ra. Bên ngoài cửa Nam của thành đặt một bình nước lớn, bên trong để mọi thức ăn uống, quả tạp với cơm vụn khô.

A Xà Lê tụng Diệu Sắc Thân chân ngôn gia trì bảy biến, sau đó tụng Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni bảy biến.

Ở trong chân ngôn Cú xưng danh hiệu của Quốc Vương gia trì: Nguyện cho đất nước của Quốc Vương không có các tai nạn.

Sau đó ở nơi trống vắng bên đường đi, vứt bỏ bình nước khiến cho vỡ tan và tác lời cáo rằng: Hàng Quỷ Hành Bệnh của Diêm Ma Giới. Các ngươi nhận lãnh thức ăn uống này. Đối với hữu tình khởi tâm đại từ khiến cho quốc giới này không có tai nạn.

Lại có pháp. Muốn cầu sống lâu không có bệnh tật. Tùy ý lớn nhỏ, trên lụa vẽ tượng Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát. Ở dưới tay thí nguyện vẽ hình tượng nam nữ ấy. Đặt tượng đó ở trong đạo trường. Mỗi ngày bày hương hoa, thức ăn uống, nhiễu quanh cúng dường phát nguyện ắt thường được gia trì mãn ước nguyện ấy.

Lại có pháp. Nếu Quốc Vương, nam nữ bị nạn lâu dài, nạn đang phát triển, hoặc đoản thọ, bệnh tật vấn quanh, ngủ nghỉ ăn uống chẳng an… đều do nhân duyên đời trước, sinh ác tú trực. Hoặc số bị bảy diệu lấn bức bản tú khiến thân chẳng an. Tức ở nơi cư ngụ dùng Ngưu Hoàng viết chân ngôn của hai mươi tám vị Đại Dược Xoa đặt trên bốn cái bệ.

Trước tiên trên cái bệ ở phương Đông đặt chân ngôn của bốn vị Đại Dược Xoa, bắt đầu khởi theo hướng Đông Bắc.

Đệ Nhất Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, nễ la già, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. DĪRGHA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Nhị Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, tô mạt đát la, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. SUNETRA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tam Dược Xoa Tướng là:

Án, bố la noa ca, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. PŪRṆA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tứ Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, Ca Tỳ La tế, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. KAPILA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở phương Nam đặt chân ngôn của bốn Đại Dược Xoa Tướng.

Đệ Nhất Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, tăng già, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. SIṂHA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Nhị Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, ô ba tăng già, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. UPASIṂHA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tam Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, Thương xí la, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. ŚAṄKHARA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tứ Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, nan ná, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. CANDANA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở phương Tây đặt chân ngôn của bốn Đại Dược Xoa Tướng.

Đệ Nhất Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, ha lị, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. HARI ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Nhị Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, ha lị kế xa, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. HARIKEŚA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tam Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, bát la bộc, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. PRABHŪ ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tứ Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, Ca Tỳ La?

Băng già la, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. PIṄGALA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở phương Bắc đặt chân ngôn của bốn Đại Dược Xoa Tướng.

Đệ Nhất Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, đà la noa, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. DHARAṆA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Nhị Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, đà lA Nan Đà, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. DHARA NANDA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tam Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, ô nễ dữu nga bả la, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. UDYOGAPĀLA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đệ Tứ Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, vĩ sái noa, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. VIṢṆU ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở góc Đông Bắc đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, bán chi ca, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. PAÑCIKA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở góc Đông Nam đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, bán tả la nghiễn noa, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. PAÑCALA CAṆḌA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở góc Tây Nam đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, đá nghi lị, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. SAPTAGIRI ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên cái bệ ở góc Tây Bắc đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, hại ma phộc đa, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. HEMAVATA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Tiếp ở phương dưới, trên tảng đá mà chân chẳng đạp lên, dùi ghi chân ngôn của bốn Đại.

Dược Xoa Tướng để dưới mặt đất ở bốn phương.

Dưới mặt đất ở phương Đông đặt Dược Xoa Đại Tướng chân ngôn là:

Án, bệ mạc, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. BHŪMA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Dưới mặt đất ở phương Nam đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, tô bộ mạc, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. SUBHŪMA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Dưới mặt đất ở phương Tây đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, ca la, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. KĀLA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Dưới mặt đất ở phương Bắc đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, ô ba ca la, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. UPAKĀLA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Tiếp trên phòng, ở  bốn góc đều đặt chân ngôn của một vị Đại Dược Xoa Tướng.

Trên phòng, ở góc Đông Bắc đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, tô lị dã, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. SŪRYA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên phòng, ở góc Đông Nam đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, A ngận nễ, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. AGNI ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên phòng, ở góc Tây Nam đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, tô ma, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. SOMA ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Trên phòng, ở góc Tây Bắc đặt Đại Dược Xoa Tướng chân ngôn là:

Án, phộc dữu, tra chỉ, hồng, nhược, sa phộc hạ.

OṂ. VĀYU ṬAKKI HŪṂ JAḤ SVĀHĀ.

Đặt chân ngôn xong. Ở vị trí của hai mươi tám vị Đại Dược Xoa Tướng, mỗi mỗi đều dùng hương xoa tô một cái Đàn nhỏ. Trên Đàn thiêu đốt Bạch Đàn Hương.

Bày hoa tạp, thức ăn uống, đèn đuốc, Át Già… kiền thành khải cáo: Nguyện xin hai mươi tám vị Đại Dược Xoa Tướng và các quyến thuộc đều trụ Bản Phương hộ trì, thủ hộ cho con họ tên… khiến trừ tai họa, việc chẳng lành, bệnh tật. Đạt được sắc thân, tăng trưởng thông tuệ, đầy đủ uy túc đoan nghiêm.

Làm gia trì ấy xong, tức hai mươi tám vị Đại Dược Xoa Tướng chẳng dám trái vượt Chư Phật như Giáo Sắc của Quán Tự Tại Bồ Tát với Kim Cương Thủ Bồ Tát, ngày đêm ủng hộ, thức ngủ yên ổn được đại uy đức.

Nếu có Quốc Vương tác Pháp này thì trong nước của vị Vua ấy sẽ tiêu diệt mọi tai nạn, đất nước an ninh, nhân dân vui sướng.

Lại có pháp. Nên vẽ tượng của Bản Mệnh Tú Trực, mỗi ngày cúng dường. Nếu tác pháp như vậy thì Ác Tú Trực sẽ chuyển thành cát tường. Dùng Bạch Đàn Hương khắc làm tượng Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát và viết chân ngôn này trên vỏ cây hoa cùng đeo.

Nếu tác pháp này, chọn ngày trực của quỷ tú thọ quán đỉnh, dùng lụa màu buộc cổ bình quán đỉnh, trong bình chứa đầy nước thơm.

Trong nước để bảy loại báu với 5 loại thuốc là: Thuốc Sa La Giả La Đẳng, rễ quả Sa Ha Nê Phộc, thuốc Kiến Tra Ca La, thuốc Vật lị Ha Để, thuốc Nghĩ Lị Yết La Noa với 5 loại hạt giống, các thứ hương… Dùng Diệp Y Quán Tự Tại Đà La Ni gia trì một trăm lẻ tám biến rồi đem rưới lên đỉnh đầu, tẩy rửa các chướng nạn.

Quán Đỉnh xong. Lấy một cái chén sành chứa đầy mọi thức ăn uống, chuyển ba vòng trên đỉnh đầu của nam nữ ấy.

Khiến một người biết pháp đưa ra xa vứt bỏ ở ngoài đồng trống. Liền kết sợi dây chỉ tuyến sách dùng diệp y chân ngôn gia trì rồi cột trên đầu. Nếu tác pháp như vậy, trên thân có bệnh tật, quỷ mỵ, yểm đảo, chấp diệu lấn bức bản mệnh tú… thì hết thảy đều diệt hết.

Lại có pháp. Nếu người bị bệnh dịch, lấy cây Xá Di nhúm lửa sau đó xông khói Hộ Ma, phối hợp tóc người, xương người ném vào lửa đốt 108 lần. Xong bảy ngày, mỗi ngày cúng dường.

Lúc Hộ Ma Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát thời xưng tên quốc thành, tên thôn làng, tên phủ phường ắt tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ. Như vậy dịch voi, dịch ngựa, dịch bò, dịch trâu… đều nên lấy xương tóc của từng loài mà tác Hộ Ma bảy ngày bảy đêm cũng đều diệt được tai dịch.

Lại có pháp. Lấy một cái bình chứa đầy nước thơm, tụng chân ngôn gia trì một trăm lẻ tám biến rồi rảy lên thân của loài vật thì tất cả bệnh dịch thảy đều tiêu diệt.

Lại có pháp. Nếu người bị đau nhức đầu. Lấy hoa có hương thơm, gia trì một trăm lẻ tám biến rồi đưa lên mũi ngửi liền được khỏi bệnh.

Lại có pháp. Nếu người bị quỷ ám. Tìm lấy bột gạo cánh gạo tám cánh ta làm hình quỷ mỵ ấy. Dùng dao thép đã tôi luyện chặt hình ấy thành từng khúc rồi Hộ Ma bảy ngày tức được khỏi bệnh.

Lại có pháp. Nếu người bị sốt rét hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày hoặc lâu lâu mới phát bệnh một lần. Dùng Ngưu Hoàng viết chân ngôn này đeo, liền được khỏi bệnh.

Lại có pháp. Hoặc người già, trẻ con bị quỷ mỵ. Viết chân ngôn này đeo ắt được trừ khỏi.

Lại có pháp. Nếu bị giặc cướp xâm đoạt phường chợ, thôn ấp. Hoặc muốn đi xa lại sợ bị trộm cắp tiền của. Lấy ngọn cây Khư Đà La, Hộ Ma, tụng chân ngôn một trăm lẻ tám biến thì chỗ đi qua sẽ không có các tai nạn.

Lại có pháp. Nếu bị sâu trùng ăn lúa mạ, lấy cát dùng chân ngôn gia trì một trăm lẻ tám biến rồi rải trong ruộng thì loài sâu trùng tự đi xa, ngũ cốc được dồi dào.

***