Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Diệu Cát Tường Bình đẳng Tối Thượng Quán Môn đại Giáo Vương

PHẬT THUYẾT KINH

DIỆU CÁT TƯỜNG BÌNH ĐẲNG

TỐI THƯỢNG QUÁN MÔN

ĐẠI GIÁO VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Từ Hiền, Đời Tống
 

PHẦN MƯỜI HAI
 

Diệu Cát Tường Bồ Tát

Quyền trái an cạnh eo

Tay phải: Thiền ngón cái phải vịn nhẫn ngón giữa phải

Hai mắt tùy tay, nhìn.

Án mãn tổ thất lý, noa thát, hồng.

OṂ. MAṂJUŚRĪ NĀTHA HŪṂ.

Di Lặc Bồ Tát Ấn

Quyền trái an cạnh eo

Tay phải trước trái tim

Bấm vạch giữa ngón

Nhẫn ngón giữa phải.

Án mỗi để lý dạ, hồng, sa phộc hạ.

OṂ. MAITREYA HŪṂ SVĀHĀ.

Nơi này nên niệm

Mười Đại Minh Vương

Chân Ngôn, Ấn Khế

Rộng như Quyển riêng

Đăng Cúng Dường Bồ Tát

Tay trái nâng tay phải

Duỗi ngón nhẫn ngón

Giữa phải cúng dường.

Án phộc nhật la lộ kế, nễ, hồng.

OṂ. VAJRA ĀLOKE DĪ HŪṂ.

Tỳ Bà Bồ Tát Khế Hai tay làm thế búng.

Án phộc nhật la vĩ nại, ác.

OṂ. VAJRA VĪṆA AḤ

Thiêu Hương Cúng Dường Khế

Hai tay cầm lò hương

Như thế cúng dường Phật.

Án phộc nhật la độ bế.

OṂ. VAJRA DHŪPE.

Ẩm Thực Cúng Dường Khế

Hai tay ở trước mặt

Giống như thế nâng vật

Án phộc nhật la a ninh dã, hồng.

OṂ. VAJRA ĀDYA HŪṂ.

Y Cúng Dường Bồ Tát

Hai tay Kim Cương Quyền

Thiền trí hai ngón cái vịn

Tiến lực hai ngón trỏ

Nghiêng xoay, múa theo phải

Tưởng như thế mặc áo.

Án phộc nhật la la tế, hồng.

OṂ. VAJRA LĀSYE HŪṂ.

Tán Hoa Bồ Tát Khế

Tay trái như nắm hoa

Tay phải Thiền ngón cái phải vịn

Nhẫn ngón giữa phải

Tay phải hướng nắm hoa

Giống như thế lấy hoa

Tưởng rải trên đỉnh Phật.

Án phộc nhật la bổ sáp bế, hồng.

OṂ. VAJRA PUṢPA HŪṂ.

Quán xỏ xâu Hoa Bồ Tát Khế

Hai tay ở trong lòng

Giống như thế lấy hoa

Tưởng từ trên đỉnh Phật

Sau đỉnh xoay vòng cột.

Án phộc nhật la ma lệ dã, hồng.

OṂ. VAJRA MĀLEYA HŪṂ.

Đồ Hương Bồ Tát Khế

Hai tay hướng ngoài, xoay

Dựng thẳng, bung bên ngoài.

Án phộc nhật la hiến đệ, hồng.

OṂ. VAJRA GANDHE HŪṂ.

Tám Đại Bồ Tát này

Ở tại viện thứ ba

Thứ tự ở bốn cửa

Trái, phải mà an ngồi

Tiếp, Kính Bồ Tát Khế

Tay trái an cạnh eo

Tay phải cầm cái gương

Tỏa sáng soi chiếu Phật.

Án phộc nhật la nại la bá nễ, hộc.

OṂ. VAJRA DARPAṆE HŪṂ.

Ca Cúng Dường Bồ Tát

Quyền trái an cạnh eo

Tay phải: Ngón

Nhẩn ngón giữa phải

Tiến ngón trỏ phải

Dựng thẳng cùng vỗ nhau.

Án phộc nhật la bổ nghĩ đế, nga, hồn.

OṂ. VAJRA GĪTE GAḤ HŪṂ.

Cam Lộ Bồ Tát Ấn

Tưởng lòng bàn tay trái

Cầm giữ nước Cam Lộ

Tay phải: Ngón giới ngón vô danh phải búng.

Tưởng rưới trên Phật Đàn.

Án phộc nhật la ổ na ca đổ sái tát.

OṂ. VAJRA UDAKOṢṬHA.

Vũ Cúng Dường Bồ Tát

Hai tay làm thế múa.

Án phộc nhật la nễ lý đế, nga, hồng.

OṂ. VAJRA NṚTI GAḤ HŪṂ.

Bốn Đại Bồ Tát này

Ở tại viện thứ ba

Thứ tự đều an cư

Ngồi yên ở bốn góc

Bí mật cúng dường xong

Dùng thức ăn uống hiến

Hoa quả với hương xoa

Mọi loại mà cúng dường

Nếu tâm chẳng mệt mỏi

Các pháp thức chẳng tận

Muốn ra khỏi đạo trường

Nên niệm Phụng Tống Minh

Lại tự suy nghĩ kỹ

Ngửa bạch các Như Lai

Con vận tâm cúng dường

Các việc pháp trong ngoài

Hoặc có điều sai lầm

Nguyện Phật thương xót con

Lại tuôn nước Cam Lộ

Tẩy rửa tất cả tội

Thảy đều khiến tiêu diệt

Lại niệm Bách Tự Minh

Bách Tự Minh xong rồi

Mới niệm Phụng Tống Minh.

Án cật lý cấu phộc, tát phộc tát đát phộc la tha, đát tất đằng na đát phộc dã tha noa nga đát nga tha đặc tông, tát phộc một đà vĩ sái diễn vĩ hạ la đặc tông, dã tha tố khiếm dã đát la, dã đát la, tát mẫu đát bá nam mẫu nại la, tát phộc tát ma tát đá mẫu lý để duệ phộc tát mẫu, tả lý dưỡng đát đát la, đát để lý phộc, mô khất xoa duệ tát ma bát đát tát tất lý nẵng, nhạ noa nẵng, tát đát phộc ốt tát tha dã, mãn đát lý vĩ hạ lý dã, latha, tố khiếm dã đát khẩn tức ca la ma ninh ca lý đá nễ bôn nễ dưỡng đảng tát phộc tát đát tông bá lý nẵng ma duệ đa cật lý đá ninh, ca la ma ninh tố na lỗ nẵng ninh bát la ca xá duệ nẵng bát la để tha na duệ đá củ nhĩ đát la tam bát ca phộc xả ca na tức la cật đế nẵng mộng nỉ nẵng vĩ mô hứ đế nẵng ca duệ nẵng, phộc chỉ dã ma nẵng tát calý đảng nhĩ đảng tát phộc bát bạn, bát la đế nễ sái dã nhĩ.

Kim Cương A Xà Lê

Cho Đệ Tử Quán Đỉnh

Như trên, trước tưởng Đàn

Cũng nên tụng Mật Ngôn

Ấy là bốn Minh Vương

Bát La Nê Dã Đát Ca

Chân Ngôn dùng hoa gạo

Đánh năm chướng của đệ tử

Bát Nạp Ma Minh Vương

Thiêu đốt hạt cải trắng

Xông ướp người nhận pháp

Tất cả các phiền não

Trá Chỉ La Nhạ Vương

Gia trì vào nước sạch

Rưới vảy thân đệ tử

Để trừ các tội dơ

Bá Đa La Chân Ngôn

Dùng gia trì Sinh Phạn

Cúng dường nơi Chư Thiên

Rồng, Thần, nhóm tám Bộ.

Nói Đàn bí mật gia trì Pháp này xong, bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: Nguyện trao cho.

Quán Đỉnh, trước tiên kết Đại Mạn Noa La Đàn rồi trao cho Quán Đỉnh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Ngũ Như Lai Quán Đỉnh Chân Ngôn là Chân Ngôn như Kinh.

Pháp này kín sâu xa

Chẳng được vọng tuyên truyền

Trừ gặp người trí tuệ

Mới có thể diễn nói.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn tác quán như vậy, nói pháp như vậy, hiện thần biến như vậy xong. Trong Hội lại có Kim Cương Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lui ra trụ một bên, quỳ gối phài sát đất.

Chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chúng con nghe pháp như vậy, thấy thần biến như vậy, học pháp môn bí mật như vậy thời sẽ có quả nào?

Khi ấy, Đức Thế Tôn nghe như vậy xong, yên lặng chẳng trả lời. Trong miệng của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng màu xanh lục che trùm khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới, trong mỗi một ánh sáng hóa ra vô lượng Phật.

Lúc đó, Kim Cương Thủ Bồ Tát cùng với các Chúng Hội đều thấy thần biến, đều sinh vui vẻ, cung kính lễ bái. Trong khoảng chốc lát. Ánh sáng màu xanh lục ấy liền ở đỉnh môn của Đức Thế Tôn rồi nhập vào.

Kim Cương Thủ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn có nhân duyên gì mà hiện ánh sáng như vậy?

Đức Thế Tôn bảo rằng: Ông hãy nghe cho kỹ! Ta vì ông nói. Nếu ông y theo pháp môn này mà tu hành thì quyết định thành Chánh Giác cũng phóng ra ánh sáng này, hay hiện việc Đại thần biến như vậy, được quả viên mãn.

Này Kim Cương Thủ! Nếu đời tương lai: Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Bà La Môn… Nếu có tai nạn của quốc vương dấy lên thời y theo Pháp Đại Mạn Noa La này thỉnh năm vị A Xà Lê có đầy đủ Từ Bi Hỷ Xả dựng lập Đàn Trường này.

Muốn dựng Đàn Trường, trước tiên chọn đất thù thắng với nơi tự mình yêu thích: Hoặc đất ở vườn hoa, hoặc đất ở hai bên trái phải của dòng nước, hoặc đất Già Lam bên ngoài cái thành, hoặc đất bằng phẳng rộng rãi ở nơi vắng vẻ, hoặc đất ở trong sườn núi… như tùy theo nơi lấy hết thứ chẳng sạch trong đất với đất tạp chẳng sạch bỏ ra, rồi lấy cát sạch trong con sông, lấp đầy đất của Đàn ấy mà làm Đàn Trường.

Đã chọn được đất xong, thầy A Xà Lê gia trì vào Sinh Phạn, trước tiên an Thổ Địa, dùng sợi dây tốt tự phương của mình giăng khoảng giới hạn, tùy theo sức của Đàn Chủ mà Đàn Trường lớn nhỏ… hoặc bốn khuỷu tay, tám khuỷu tay, mười sáu khuỷu tay, hai mươi khủy tay.

Đã giăng khoảng giới hạn xong, nhóm A Xà Lê mặc áo sạch mới, đem cây cọc Kim Cương đóng ở bốn góc. Trước tiên, từ góc Đông Nam đến góc Đông Bắc, dùng cái xẻng đều đào chút ít đất của Đàn, rồi có thể khiến người thanh tịnh tự phương của mình ra công, lấy đất thẳng đến bờ mé của nước.

Hoặc sức chẳng đủ thì lấy đến mé đất mới. Xong dùng bột của bốn báu ném vào, lại lấy đất sạch trong con sông lấp đầy rồi làm thành cái Đàn ấy. Khiến người thanh tịnh bên trên tắm gội, mặc áo sạch mới, ăn ba loại thức ăn màu trắng, nếu chẳng đủ sức thì dùng cơm trong sạch cũng được, cho đến khi Đàn viên mãn.

Đàn ấy cao khoảng một khuỷu tay, tưởng nửa khuỷu tay ngay bên dưới Đàn, Đàn cao nửa khuỷu tay. Ở bên trong nửa khuỷu tay ấy lấy hai vị trí làm độc cao, một vị trí làm cái ao nước rồi dùng đất sạch với phân của con bò sữa ở ruộng đồng hòa chung với nhau tô trét Đàn. Tùy theo sức của Đàn Chủ xây dựng cái Điện thờ, nếu chẳng đủ sức thì làm căn nhà cỏ cũng được, rồi mở bốn cửa, cửa cách Đàn ấy khoảng bốn bước chân.

Cách Đàn hai bước chân dùng làm Đàn Giới giới hạn của Đàn, bên trong giới cúng dường. Bên ngoài giới khoảng hai bước chân dùng làm nơi hành đạo.

Xong. Dùng phân của con bò sữa hòa chung với nước sạch lau rửa Đàn.

***