Kinh Đại thừa
Bộ Niết Bàn
PHẬT THUYẾT
KINH ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nghĩa Tịnh, Đời Đường
Như vậy tôi nghe!
Một thời Đức Bạc Già Phạm Bhagavan: Thế Tôn ngự trong vườn Trúc Lâm tại Đại Thành Vương Xá cùng với chúng Đại Bật Sô gồm năm trăm người đến dự.
Thời có chúng, phần lớn các vị Bật Sô Bhikṣu: Tỳ Kheo thân bị bệnh trĩ nhọt lở loét, hình thể gầy ốm, khổ đau vây buộc, ở trong ngày đêm chịu nhiều ưu não buồn rầu, buồn bực.
Lúc đó, Cụ Thọ A Nan Đà Ānanda nhìn thấy việc ấy liền đi đến nơi Đức Thế Tôn ngự, đỉnh lễ hai chân của Ngài rồi đứng sang một bên và bạch rằng
Thế Tôn! Nay thành Vương Xá phần lớn có các vị Bật Sô, thân bị bệnh trĩ, hình thể gầy ốm, khổ đau vây buộc, ở trong ngày đêm chịu nhiều ưu não.
Thế Tôn! Làm thế nào mới có thể chữa trị được các bệnh trĩ này?
Đức Phật bảo A Nan Đà: Ông có thể nghe Kinh điều trị bệnh trĩ liệu trĩ bệnh này, đọc tụng thọ trì, buộc tâm chẳng quên. Cũng đối với người khác rộng vì họ tuyên nói thì các bệnh trĩ này thảy được trừ khỏi.
Ấy là: Phong trĩ nhọt lở loét do gió, nhiệt trĩ nhọt lở loét do nóng, âm trĩ, tam hợp trĩ, huyết trĩ nhọt lở loét do máu, phúc trung trĩ nhọt lở loét trong bụng, tỳ nội trĩ nhọt lở loét trong bao tử, xỉ trĩ nhọt lở loét ở răng, thiệt trĩ nhọt lở loét ở lưỡi.
Nhãn trĩ nhọt lở loét ở mắt, nhĩ trĩ nhọt lở loét ở tai, đỉnh trĩ nhọt lở loét ở đỉnh đầu, thủ túc trĩ nhọt lở loét ở tay chân, tích bối trĩ nhọt lở loét tụ ở lưng, thỉ trĩ, các nhọt lở loét sanh ra từ chi tiết toàn thân trĩ lũ nhọt lở loét chảy nước vàng như vậy thảy đều khô ráo, rơi rụng, tiêu diệt đều khỏi.
Đều nên tụng trì Thần Chú như vậy Liền nói Chú là:
Đát điệt tha: Yết lại mễ, thất lợi, thất lợi, ma yết thất chí, tam ma yểu đô, sa ha.
TADYATHĀ: OṂ SARVA GRATHITA ME ŚRĪ ŚRĪ MĀ KAṢṬI SAṂBHAVATU SVĀHĀ.
Chú này Đan Tạng ghi là:
Đạt điệt tha: Át lan đế, át lam mê, thất lợi tỳ, thất lý, thất lý, ma yết thất chất, tam bà bạt đổ, sa ha.
TADYATHĀ: OṂ SARVA GRATHITA ME ŚRĪBHYAḤ ŚRĪ ŚRĪ MĀ KAṢṬI SAṂBHAVATU SVĀHĀ.
Này A Nan Đà! Ở phương Bắc có núi tuyết lớn Đại Tuyết Sơn Vương. Trong đó có cây Sa La tên là Nan Thắng, có ba loại hoa, một là mới sanh, hai là tròn trịa, ba là khô héo. Giống như hoa ấy, khi khô héo thì rụng xuống.
Các bệnh trĩ của ta cũng như vậy. Đừng để cho máu lại chảy ra, đừng để cho mủ tuôn chảy ắt vĩnh viễn trừ hết sự đau khổ thảy đều khô ráo.
Lại nữa, nếu thường tụng Kinh này sẽ đắc được túc trụ trí, có thể nhớ lại việc của bảy đời, Chú pháp thành tựu, Sa Ha.
Lại nói Chú là:
Đạt điệt tha: Chiêm mễ, chiêm mễ, xả chiêm mễ, chiêm một nễ xả chiêm nê, sa ha.
TADYATHĀ: ŚAME ŚAME SAŚAME ŚAMANĪSĀ JAḌI SVĀHĀ.
Đức Phật nói Kinh này xong thời Cụ Thọ A Nan Đà với các đại chúng đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.
***