Kinh Nguyên thủy
Phật Thuyết Kinh Diệu Tý Bồ Tát Sở Vấn
PHẬT THUYẾT
KINH DIỆU TÝ BỒ TÁT SỞ VẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Thiên, Đời Tống
PHẦN HAI
LỰA CHỌN TÌM NƠI THÙ THẮNG
Lại nữa, người hành trì tụng! Nếu muốn tu hạnh chân ngôn cầu sự thành tựu, trước hết cầu được pháp do Chư Phật giảng nói và cầu tìm được nơi cư ngụ lúc trước của Đức Phật, Bồ Tát, Bích Chi, Thanh Văn vì đấy là Thắng Địa. Nơi ấy thường có các hàng Trời, Rồng, A tu la cung kính thủ hộ cúng dường.
Tại sao vậy?
Ấy là các bậc Trượng Phu tối thắng trong hàng Trời, Người đã từng ở đấy. Khi được đất này rồi, người hành trì tụng cần phải thanh tịnh thân tâm, đầy đủ luật nghi và thường cư ngụ ở nơi này. Nếu không được phước địa ấy mà chỉ tìm được chỗ bên bờ sông lớn, hoặc bờ sông nhỏ, hoặc cạnh ao suối cho đến khe ở dốc núi có nước trong tràn đầy, không có các loài thủy tộc độc ác… thì cũng được.
Hoặc tìm các chốn có hoa sen, hoa Ô Bát La Utpala: Hoa sen xanh với các hoa thơm cỏ lạ, cỏ mềm phủ khắp. Hoặc các hốc nơi sườn núi hay trong hang núi không có các loài thú đáng sợ như sư tử, thú dữ … khi tìm được chốn ấy rồi cần phải đào sâu xuống một khuỷu tay, loại bỏ gai góc, gạch ngói, tro than, đất mặn, xương cốt dơ bẩn, lông tóc, các tổ của loài trùng sâu.
Nếu đào sâu xuống mà chẳng loại trừ được các thứ trên thì nên bỏ đi tìm đến nơi khác, cũng đào sâu xuóng một khủyu tay như trước rồi lấy đất sạch ở nơi khác lấp bằng hố đấy, xong mới dựng nhà. Cũng dùng đất sạch tán nhỏ thành bùn rồi xoa khắp trong ngoài.
Lại dùng Cù Ma Di Gomaya: Phân bò xoa lên mặt đất ở ngay chỗ nằm ngồi. Phải thường ở trên mặt đất chẳng được dùng giường phản. Nhà ở chỉ mở cửa hướng về phương Đông, phương Tây hoặc phương Bắc không được hướng về phương Nam.
Như vậy dựng nhà xong. Sau đó tùy sự tương ứng dựa theo phương sở của Tôn Tượng mà làm sự nghiệp. Trước hết, dùng các loại diệu hương tô điểm trang sức nơi đặt bày Tôn Tượng.
Về Tôn Tượng thì có thể điêu khắc hoặc đúc đắp hoặc vẽ trên vải. Nếu vẽ thì phải tìm sợi vải sạch, lựa bỏ lông tóc rồi đem dệt thành khổ vải, lớn nhỏ dài ngắn tương xứng, không được cắt bỏ sợi vải ở hai đầu. Khi dệt vải xong, dùng nước hương ngâm giặt, căng ra cho thẳng rồi nhờ người vẽ.
Người vẽ phải ăn chay, tắm gội sạch sẽ, lại thọ tám giới cho trong ngoài thanh tịnh, xong rồi mới vận tâm vẽ. Phàm sử dụng sắc vẻ thì nên tìm màu sắc đẹp nhất. Tốt nhất không được dùng keo nấu bằng da sinh vật mà dùng keo nấu bằng hương thơm để điều hòa sắc vẻ.
Vẽ Tượng xong, tùy theo phương hướng định vị Tượng. Dùng các loại thức ăn uống, hương, hoa, đèn … làm pháp đại cúng dường. Nếu không đủ khả năng thì tùy theo sức mà cúng dường, cốt yếu là chuyên chú chân thành tín trọng tán thán lễ bái cúng dường. Làm như vậy xong, tụng trì trước mặt Tôn Tượng thì mọi điều mong cầu sẽ mau thành tựu.
Lúc sắp sửa bắt đầu tu trì, trước hết người tụng trì phải cạo tóc, tắm rửa, mặc quần áo mới sạch sẽ, không được dùng áo bằng tơ tằm, cũng không được dùng màu trắng, chỉ có thể dùng vải với vỏ cây hoặc các loại cây cỏ, nên dùng đất đỏ nhuộm vải để phá màu sắc.
Lại nên thọ trì bình bát khất thực, có thể dùng gỗ cây Sa La, đồ sành sứ, đồng,thiết, hoặc vỏ trái bầu để làm bình bát. Bình bát phải được giữ gìn nhẵn nhụi sạch sẽ, không được dò rỉ hoặc hư mẻ. Sau đó ôm bình bát này đi khất thực.
Phàm khất thực thì chỉ có thể ở nơi chẳng gần chẳng xa các làng mạc, nơi có nhiều Thủ Đà Śūdra tín trọng Tam Bảo, nơi có nhiều thức ăn uống và không có ngoại đạo Bà La Môn. Vì hàng Bà La Môn Brāhmaṇa ấy có khuynh hướng chấp tính, vô tàm không biết xấu hổ, ngã mạn.
Lại nữa, khi kẻ ngoại đạo gặp hành nhân đang ôm bình bát đi khất thực, tụng trì chân ngôn, tu theo pháp Phật thì liền sinh sự gây khó khăn chướng ngại như nói là: Ngươi vốn là dòng Bà La Môn Brāhmaṇa có thể tu pháp Bà La Môn như phụng hành sáu pháp, đa văn Tịnh Hạnh, tín trọng Chư Thiên, phụng sự Vua chúa và lấy vợ để sinh con nối dòng.
Nếu ngươi hành các điều này thì sẽ được giải thoát, cần gì phải tụng trì chân ngôn của Thích Giáo và tín hành Phật Pháp?
Nếu hành nhân thuộc dòng Sát Đế Lợi Kṣatriya thì lại nói rằng: Ngươi là dòng Sát Đế Lợi nên có thể phụng hành Vương Pháp, tiếp nối ngôi Vua.
Tại sao lại phụng trì chân ngôn Phật Giáo, phản bội bản tông để cầu giải thoát?
Nếu hành nhân thuộc các dòng Tỳ Xá Vaiśya, Thủ Đà Śūdra thì kẻ ngoại đạo cũng đều nói về việc của Bản Tông là pháp giải thoát và hành nhân chẳng thể hợp với sự tụng trì chân ngôn Phật Giáo để cầu giải thoát. Bọn ấy thường dùng lửa sân đốt tâm, các loại ỷ ngữ và nhiều phương tiện gây chướng ngại khó khăn để não loạn khiến cho hành.
Nhân sinh tâm thoái lui Bậc tu hành chính đạo thường khất thực y theo thời chẳng y theo kẻ ngoại đạo đã quá giờ ngọ mà vẫn đi khất thực. Phàm nơi khất thực, đừng đến nhà ngoại đạo và những nơi có nhiều ngoại đạo.
Nếu luận bàn về pháp thiện ác nhân quả thì cần phải biết rằng: Hay làm pháp thiện sẽ chứng Niết Bàn Nirvāṇa, nếu tạo nghiệp ác thì cuối cùng bị đọa vào đường khổ. Sự báo ứng của thiện ác chẳng do dòng tộc mà có, ấy chỉ do thế gian phân biệt hư vọng mà thôi.
Lại nữa, chúng sinh từ vô thủy đến nay, thân bị nhơ uế chẳng phải do ăn uống trong sạch mới tịnh được thân tâm, mà cần phải xa lìa các điều ác, thường làm các điều lành và tích tụ các pháp lành thì mới tịnh được thân tâm. Ví như có người bị ung nhọt trên thân thì chỉ tìm kiếm thuốc men diệt trừ ung nhọt chứ chẳng mong muốn điều gì khác.
hành nhân ăn uống chỉ cốt trừ cái đói chứ chẳng vì ưa thích món ngon. Lại có người bị rơi vào xứ đang hạn hán, do sự đói khát áp bức mà người ấy phải giết con để ăn, sự kiện ấy là do muốn trừ cái khổ của sự đói chứ chẳng vì tham mùi vị.
hành nhân ăn uống cũng giống như thế. Pháp ăn uống cũng giống như cái cân, hễ vật chẳng nặng chẳng nhẹ thì cân ngang bằng, hành nhân ăn uống cũng giống như thế, chẳng được ăn quá lượng cũng đừng giảm bớt chỉ cần giữ gìn đừng cho bị tổn thương bởi sự no đói cũng như căn nhà hư nát, phải thay đổi cột kèo để khỏi bị sụp đổ.
Hoặc dùng dầu mỡ bôi vào trục xe chỉ cốt cho bánh xe trơn lăn tới trước. Hành nhân ăn uống cũng giống như thế, chỉ cốt giữ gìn sức khỏe chứ chẳng vì mùi vị.
Chính vì thế cho nên Đức Phật bảo rằng: Chúng hữu tình trong Cõi Dục chỉ y theo thức ăn mà an trú. Lại nữa hành nhân tuy cần thiết ăn uống để giữ gìn thân thể nhưng luôn luôn quán thân xác này giống như cây chuối không bền chắc và thường dùng điều này để chế ngự Tâm chẳng cho trụ nơi tham ái.
Phàm lúc khất thực thì nên ôm bình bát theo thứ tự tuần hành đi xin, thường suy niệm về cái điều do đức thế tôn nói, dùng trí tuệ tùy theo phương tiện để điều phục sáu căn không cho chúng tán loạn.
Khi nhìn thấy sắc đẹp với các thứ trần cảnh thì hãy xem đó như là cảnh giới của Ma đang muốn mê hoặc lòng người. Do đó nếu phải khởi phương tiện, người tu hành chẳng thà lấy cây sắt nung đỏ đâm vào hai mắt của mình chứ chẳng dùng tâm loạn để tham nhìn sắc đẹp với các cảnh trần hoặc tham nhìn các cảnh lạ thường.
Người tu hành chỉ nên tùy duyên khất thực và chẳng dính chấp, thường nên dùng sự so sánh để điều phục tâm rồi an nhiên tuần tự đi khất thực các nhà, không phân biệt thượng trung hạ và luôn luôn xa lìa sự chấp bỏ thủ xả.
Tuy nhiên người tu hành không được ở chỗ có người mới sinh đẻ, nơi có nhiều người uống rượu, nơi có nam nữ say mê ái nhiễm, nơi có nhiều con nít cười vui, nơi có nhiều chúng nam nữ tụ hội, nơi có nhiều nam nữ vui chơi âm nhạc cho đến nơi có nhiều chó dữ. Các nơi như vậy đều không nên cư trú.
Xin được thức ăn rồi, hành nhân ôm bình bát quay về chỗ lúc trước, rửa chân ngồi xuống sau đó mới ăn.
Trước khi ăn, chia thực phẩm ra làm ba phần: Một phần đem dâng Bản Tôn để cúng dường, một phần đem bố thí vô ngại, một phần tự mình ăn. Lúc ăn phải đúng theo thời. Ăn xong, súc miệng rửa ráy cho trong sạch, một ngày nên tắm rửa ba lần.
Trước tự thanh tịnh, sau đó dùng hương, hoa, đèn, nến, các thứ cúng dường, ca ngợi lễ bái dâng hiến Tôn Phật. Tất cả thực phẩm cần phải trong sạch tinh khiết, xa lìa các thứ ngũ tân uế trược. Mỗi khi trì tụng nên ngồi trên cỏ Cát Tường Kuśala.
Phàm pháp cúng dường, nếu chẳng làm rộng lớn được thì tùy theo khả năng mà phân chia, dâng các hương, hoa như hương Linh Lăng, Át Ly Già, Quả Cát Tường, Một Lỵ Hạ Đế, cỏ cát tường kèm với hoa sen hòa hợp cúng dường khiến cho Chư Tôn đẹp ý.
hành nhân trì tụng, hoặc đi hoặc ngồi, cần phải suy niệm thâm sâu, chỉ trừ lúc nằm ngủ thì chẳng hứa niệm. Niệm tụng xong rồi, hành trong sáu thời, tâm luôn luôn suy niệm công đức không được gián đoạn cho đến lúc viên mãn.
***