Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh độ Thế Phẩm

PHẬT THUYẾT

KINH ĐỘ THẾ PHẨM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN BẢY
 

Những gì là mười?

1. Thường phụng kính Chư Phật, ngày ngày quy y.

2. Khai hóa chúng sinh.

3. Gặp các thiện hữu thì nương nhờ vào họ.

4. Thường vui thích tích lũy các gốc đức.

5. Đều vì làm nghiêm tịnh các cõi nước Phật.

6. Thường thương xót tất cả không rời bỏ chúng sinh.

7. Vào khắp các độ vô cực.

8. Muốn đạt đầy đủ các nguyện Bồ Tát.

9. Chỗ tu vô lượng, quay về tâm đạo.

10. Biết rõ Chư Phật, thành tựu Chánh Giác.

Đó là mười việc Bồ Tát nương tựa để thành tựu đạo hạnh.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Thuần kính khắp Chư Phật

Chỗ nương hạnh Bồ Tát

Khai hóa mọi chúng sinh

Kính thuận các thiện hữu

Tích lũy các gốc đức

Nghiêm tịnh các Cõi Phật

Vào các độ vô cực

Đầy đủ nguyện Bồ Tát.

Bồ Tát có mười việc dũng mãnh.

Những gì là mười?

1. Tiêu trừ tất cả các tội ngăn che.

2. Chư Phật Thế Tôn thị hiện sự diệt độ thì phụng trì Chánh Giáo.

3. Dùng tâm dũng mãnh hàng phục chúng ma.

4. Biết rõ vô thường, không tiếc thân mạng.

5. Dùng duyên chánh pháp để chuyển hóa ngoại đạo.

6. Dùng tâm nhu hòa làm cho chúng sinh hoan hỷ.

7. Mang tâm phấn chấn, tất cả chúng hội thấy được khiến mọi người cũng đều hân hoan.

8. Điều hóa tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, Kiền Đạp Hòa, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hầu Lặc… đều lãnh thọ nhân duyên ấy.

9. Phụng tu Nhu thuận, nương pháp thâm diệu.

10. Thường xả Thanh Văn và Duyên Giác thừa, ở trong vô lượng kiếp hành hạnh Bồ Tát mà không mệt mỏi.

Đó là mười tâm dũng mãnh của Bồ Tát.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Trừ bỏ các tội chướng

Thừa sự Phật diệt độ

Hàng phục chúng quân ma

Không tiếc thân mạng mình

Thường hóa các ngoại đạo

Hoan hỷ với chúng sinh

Quỷ thần đều thọ giáo

Thường hành hạnh Bồ Tát.

Bồ Tát có mười việc đoạn trừ các hồ nghi, không còn do dự.

Những gì là mười?

1. Bồ Tát phát tâm và tự nghĩ: Ta sẽ dùng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để cứu giúp tất cả chúng sinh. Ta dùng từ bi vui giúp và dẫn dắt họ, tuy làm việc đó mà không hề hồ nghi. Nếu ai muốn làm cho ta thoái lui thì không thể được.

2. Bồ Tát lại nghĩ: Ta thấy khắp các Bậc Chánh Giác ở mười phương và các vị Phật vị lai sẽ có được tuệ vô thượng và ta cúng dường họ mà tâm không do dự, giống như đuôi trâu vừa cong vừa cứng.

3. Bồ Tát lại nghĩ: Ta dùng vô số ánh sáng chiếu hết các Cõi Phật, nghe các nẻo hành của chư Bồ Tát vị lai trong vô tận số kiếp mà tâm không nhàm chán.

4. Khai hóa vô số chúng sinh mà không cho là khó. Pháp giới rộng khắp không thể hạn lượng, giống như hư không không có bờ mé. Việc độ chúng sinh vô lượng cũng như vậy, không hề lấy làm chán mệt.

5. Bồ Tát lại nghĩ: Ta tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ các nguyện, thành tựu các thông tuệ và nhất thiết trí.

6. Bồ Tát lại nghĩ: Lúc ta hành Bồ Tát đạo thì đều đạt đến ánh sáng đạo pháp và sự thông tuệ vô cực của Phật.

7. Thường vui dùng và xem tất cả các pháp đều là pháp Phật.

8. Biết rõ tất cả chỗ niệm khởi của chúng sinh, hiểu rõ những phạm trù vô số và vô tận số, các pháp hữu vi cùng vô vi.

9. Thành tựu Bình đẳng giác, thấu đạt các pháp đều là việc độ đời, trừ các tưởng điên đảo. Tuy có uế trược cũng đều xem như thanh tịnh.

10. Bồ Tát hiểu rõ tất cả pháp Phật, thành Tối Chánh Giác, không có các tưởng điên đảo, cái thấy mê lầm và một mảy may chấp trước. Tuy ở hữu vi có các lậu nhưng đạt đến vô vi, bỏ các lợi dưỡng thì có thể đi vào vô số cõi.

Đó là mười việc đoạn hồ nghi của Bồ Tát Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Niệm thí, giới, nhẫn, tấn

Thiền định, tu trí tuệ

Hành từ, bi, hỷ, xả

Thấy Chư Phật phụng kính

Quang minh chiếu sáng đủ

Vô lượng kiếp vị lai

Tâm không có biếng trễ

Thành Phật nhất thiết trí

Các pháp đều pháp Phật

Cũng đều độ thế pháp

Bỏ uế trược điên đảo

Được Tối Chánh Giác Phật.

Bồ Tát có mười việc không thể nghĩ bàn.

Những gì là mười?

1. Sự tu gốc đức không thể nghĩ bàn, tất cả sở nguyện không thể suy lường.

2. Quán sát các pháp đều như huyễn hóa, nhờ phát đạo tâm nương vào các nghiệp thiện không hề trái mất.

3. Tu hạnh Bồ Tát, vĩnh viễn không còn vọng tưởng.

4. Tu nghĩa thâm yếu vào khắp các pháp, không thủ chứng diệt độ. Đạo tuệ chưa tròn thì chưa xả bỏ.

5. Tu hạnh Bồ Tát, thị hiện vào thai mà sinh ra.

6. Siêng tu phạm hạnh, đến cây Bồ Đề, hàng phục chúng ma, đạt thành Chánh Giác chuyển pháp luân, thị hiện diệt độ, kiến lập và hiển bày các Phật Sự, không xả đại bi, hộ trì chúng sinh không trái bản nguyện.

7. Lại nữa, Bồ Tát ấy lúc mới phát tâm đã kiến lập và thị hiện mười lực Như Lai, ở tại pháp giới khai hóa chúng sinh chưa từng ngừng nghỉ.

8. Lại nữa, các Bồ Tát ấy dùng vô tưởng để vào các tưởng. Lại dùng hữu tưởng đi vào vô tưởng, không hề tưởng nghĩ mà nói các việc tưởng nghĩ. Lại dùng các niệm mà nói việc vô niệm. Dùng vô sở hữu đi vào sở hữu.

Lại dùng các sở hữu nhập vào vô sở hữu. Dạy dỗ sự không tạo tác mà đi vào sự tạo tác. Giáo hóa chỗ tạo tác mà đi vào chỗ không tạo tác. Ở nơi vô sở đắc mà nói có sở đắc. Ở chỗ có sở đắc mà nói vô sở đắc và biết rõ các pháp đều vô sở hữu.

9. Lại nữa, Bồ Tát ấy tâm bình đẳng nơi đạo, đạo cũng vì bình đẳng mà có. Biết rõ tâm đạo, chúng sinh không có hai khác, tâm không điên đảo, chốn tư niệm không mất, chỗ thấy bình đẳng, không theo tà nghi.

10.Lại nữa, Bồ Tát ấy trong lúc phát tâm, tâm ấy vốn vắng lặng, định ý chánh thọ. Ở nơi bản tế mà không khởi chứng đắc, dùng vô lậu, hữu lậu mà vĩnh viễn chẳng diệt. Bố thí các gốc đức, hiểu rõ các pháp, vì người mà nói tất cả sự vô lậu. Các lậu đã hết thì vì người mà tuyên thuyết, có thể dùng pháp Phật mà đi vào pháp thế tục.

Tuy ở trong ấy mà không vướng mắc nơi pháp thế tục, không niệm tục. Quán tất cả pháp đều nhập Pháp thân mà cũng chẳng có chỗ nhập. Hiểu rõ các pháp không có hai khác, cũng không chốn hành.

Đó là mười sự không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Bồ Tát trú ở đây thì mau chóng thành tựu đạo Vô Thượng chánh chân.

Bồ Tát có mười việc giải nói chân đế.

Những gì là mười?

1. Tùy thời mà chân thành diễn nói tất cả pháp Phật.

2. Xả bỏ pháp ác chẳng mất sự tiết chế. Dùng thần túc biến hóa của chư Bồ Tát mà tuyên dạy chánh pháp.

3. Có thể dùng phương tiện, tùy theo chúng sinh mà vào nơi tội phước của họ. Tuyên dương chúng sinh mà trừ khử tất cả phiền não ái dục. Vì có thể thấu rõ nghĩa chúng sinh.

4. Dùng pháp môn vô vi tiêu trừ các chướng ngại, tu tập nhàn tịnh.

5. Lại nữa, Bồ Tát ấy dùng vô sở trú giống như hư không. Mỗi một chỗ vào chẳng dùng giới cấm. Trời đất thành hoại không hề nghi ngại. Ở các Thế Giới không bị chìm ngập, ở nơi cảnh giới các pháp không bị che chướng.

6. Chỗ vào các phương diện đều đem đến lợi ích vi diệu. Sinh ra, xuất gia, đạt đến Như Lai chánh chân, rốt cùng thị hiện diệt độ.

7. Bồ Tát lại đi vào pháp giới của Chư Phật, thấy khắp sự hành dụng tiến, dừng của Chư Phật.

8. Bồ Tát đều thấy chúng sinh ở nơi Niết Bàn, không chỗ tạo tác, nguyện chẳng rơi rớt và sẽ hội tụ đầy đủ các trí thông tuệ.

9. Lại có Bồ Tát thấy tất cả pháp không chỗ nương tựa, không rời thiện hữu, chỗ phải thân gần mà không ỷ lại.

10. Như Lai tinh chuyên không hề có pháp biếng trễ. Nhìn bạn và thù đều với thái độ bình đẳng. Tích lũy gốc đức, khuyến giúp và hợp nhất khiến họ được đồng đẳng, tán dương sự thành tựu khiến họ không thấy có hai.

Đó là mười việc tùy thời giải nói của Bồ Tát.

Bồ Tát có mười tuệ phân biệt.

Những gì là mười?

1. Hiểu rõ tất cả các Cõi Phật.

2. Vào thấu nguồn gốc suy thịnh của chúng sinh.

3. Biết rõ tâm hành hiện hữu của chúng sinh.

4. Bày rõ các căn suy thịnh của chúng sinh.

5. Lại biết tất cả hành quả, báo ứng.

6. Tùy thời vào khắp mà phân biệt nghĩa Thanh Văn.

7. Và cũng như vậy đối với chúng Duyên Giác.

8. Dùng phương tiện từ pháp thế tục mà phân biệt, tu hạnh Bồ Tát.

9. Tất cả đều thuận nhập vào pháp Phật.

10. Hiểu tuệ phương tiện.

Đó là mười tuệ phân biệt của Bồ Tát. Bồ Tát trụ ở đó thì mau chóng thành tựu đạo vô thượng chánh chân.

Có mười việc về tam muội của Bồ Tát.

Những gì là mười?

1. Là đều biết khắp tất cả sở hữu trong mười phương Thế Giới.

2. Có thể dùng định ý, các pháp tam muội làm vắng lặng thân chúng sinh.

3. Định, tam muội ấy thấy khắp mười phương Phật.

4. Có thể kiến lập tất cả các niệm, tùy thời định ý.

5. tam muội ấy có thể động chuyển vô số thân, cũng có thể khởi lập từ tam muội.

6. Vào khắp tam muội chánh thọ của Chư Phật Như Lai Chánh Giác mà khai ngộ chúng sinh.

7. Trí tuệ ấy rất rộng lớn, biết rõ tam muội tùy thời của chư Bồ Tát.

8. Mỗi lúc phát tâm thì đi vào tuệ nhất tâm.

9. Dùng vô vi tâm khai mở trí tuệ thanh tịnh.

10. Có thể rộng tu trí tuệ Bồ Tát, không bỏ thuần tín. Dùng nguyện nơi đại tuệ biết rõ tam muội.

Đó là mười việc về tam muội của Bồ Tát.

Có mười việc về những gì sở hữu của Bồ Tát?

Những gì là mười?

1. Sở hữu tất cả những gì của chúng sinh.

2. Với cõi nước của các Bồ Tát cũng vậy.

3. Quán khắp chúng sinh biết rõ vốn không.

4. Lúc gặp kiếp hỏa tai thì Trời đất đều hư vong.

5. Hoặc gặp kiếp thủy tai, lúc Trời đất hư vong rồi thì liền hợp thành trở lại.

6. Chư Phật Chánh Giác cũng đều vô sở hữu.

7. Vô vàn chủng hạnh đều không xứ sở.

8. Thân Như Lai có công huân vô lượng.

9. Chỗ nói nghĩa lý, gốc ngọn của tất cả các pháp đều giống nhau.

10. Nếu có thể cúng dường Chư Phật Chánh Giác thì chỗ về đều không.

Đó là mười việc nêu bày về những gì sở hữu của Bồ Tát.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Sở hữu gì chúng sinh

Cõi nước, không xứ sở

Quán sát các tướng hảo

Kiếp thiêu Trời đất hoại

Hợp lại cũng như vậy

Phật thân vô số hình

Như Lai không thể bàn

Nói pháp vô số loại.

Cửa giải thoát của Bồ Tát có mười việc.

Những gì là mười?

1. Thân ấy biến khắp tất cả Thế Giới.

2. Hiện khắp mười phương với vô vàn loại hình, vô số sắc tượng.

3. Dùng các pháp giới mà thể nhập một Cõi Phật.

4. Kiến lập tất cả các loài chúng sinh để trang nghiêm Phật.

5. Thân hình biến khắp vô số Cõi Phật trong mười phương.

6. Tự nhiên biết rõ khắp tất cả các cõi.

7. Một khi phát tâm thì khắp các Cõi Phật đều hiện ra Chư Phật.

8. Tại mỗi cõi nước thì đều khiến cho Chư Phật nhập vào một thân.

9. Đều làm cho thần túc Chư Phật cảm ứng và lấy làm hoan hỷ.

10. Thể nhập nhất tâm.

Đó là mười việc về cửa giải thoát của Bồ Tát.

***