Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh độ Thế Phẩm

PHẬT THUYẾT

KINH ĐỘ THẾ PHẨM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN CHÍN
 

Bồ Tát có mười việc về tâm bất động.

Những gì là mười?

1. Tất cả sở hữu đem bố thí mà không hề luyến tiếc. Sự bố thí ấy đều vì sự thanh tịnh mà tâm không hề bị lay động.

2. Bồ Tát tư duy sáng rõ pháp thâm diệu của Chư Phật. Quy y, thừa sự và phụng kính Chư Phật.

3. Thương xót chúng sinh, tinh tấn vô lượng, chưa từng sân hận. Từ loài người cho đến loài vật, các Bồ Tát không hề quên độ thoát một chúng sinh nào.

4. Cầu pháp của Chư Phật chưa hề nhàm mỏi.

5. Tất cả chúng sinh nhiều không thể kể, hành hạnh Bồ Tát trong vô số kiếp, chẳng gần chẳng xa, vì hạnh Bồ Tát chưa từng thoái chuyển, không đóng không mở.

6. Lại nữa, Bồ Tát ấy đời trước đã sinh tín tâm, có sự tu hành thanh tịnh vô lượng. Sự thanh tịnh ấy xa rời mọi nẻo tươi sáng và cấu bẩn.

7. Phụng kính Chư Phật, ân cần tu hành, trừ bỏ tham thân, không điều thích thú nhưng vì đồng loại mà đến với niềm vui lớn, sảng khoái vô cực, thuần tín vì đạo.

8. Nương về nhất thiết trí, ứng hợp với chương cú ấy, thành tựu rốt ráo giáo nghĩa Bồ Tát.

9. Tu hành và giáo hóa ở chỗ nghe và tâm tin của chúng sinh, không có sự hủy báng.

10. Đối với sự biến hóa của nghiệp báo phiền não thì tâm Bồ Tát luôn bất động.

Đó là mười việc về tâm bất động của Bồ Tát. Bồ Tát an trú ở đây thì liền thấu đạt các thông tuệ mẫn tiệp.

Bồ Tát có mười việc không xả bỏ.

Những gì là mười?

1. Không xả sự đạt thành đạo Tối Chánh Giác đạo của Chư Phật.

2. Không bỏ sự giáo hóa chúng sinh khiến họ vào nơi pháp luật.

3. Không thể quên mất và bỏ sự giáo huấn theo lời dạy của Chư Phật.

4. Quy y và nương nhờ theo thiện tri thức mà không hề xa lìa.

5. Đến khắp các Cõi Phật, quỳ gối, đảnh lễ Như Lai chánh chân, không hề bỏ mất oai nghi.

6. Thường cầu tất cả pháp công đức, không bỏ đại thừa, gieo trồng Phật Pháp nơi đời, tịnh tu phạm hạnh.

7. Phụng trì giới cấm không hề hủy phạm.

8. Theo chư Bồ Tát siêng tu đạo nghiệp, không vì biếng nhác mà bỏ mất.

9. Thích cầu nghĩa lý nơi lời dạy của Chư Phật, tùy thời thọ trì, tham học không quên, tu tập theo hạnh nguyện của Bồ Tát.

10. Không bỏ sự tư duy của thông tuệ về việc giáo huấn của Chư Phật.

Đó là mười điều mà tâm Bồ Tát không hề quên bỏ.

Có mười việc quán tuệ của Bồ Tát.

Những gì là mười?

1. Quán tất cả các pháp, phân minh nghĩa lý chương cú, tùy thời diễn thuyết.

2. Quán gốc đức khắp ba đời, vì chúng sinh thuyết pháp.

3. Thấy chỗ hành nơi bản tế của chư Bồ Tát mà khai hóa họ.

4. Quán các pháp môn, thấu rõ nguồn cội.

5. Quán thấy sự kiến lập của Chư Phật.

6. Quán các tổng trì để ban rải pháp môn, hiển bày diệu dụng ở đó để khiến chúng sinh trở về.

7. Cũng dùng trí sáng quán khắp thế gian.

8. Thấy khắp các pháp giới, thuận tuệ mà vào.

9. Trí tuệ khó bàn biết rõ mười phương.

10. Thấy trí tuệ Chư Phật, rõ khắp nơi Thế Giới Thánh minh vô lượng.

Đó là mười quán tuệ của Bồ Tát.

Bồ Tát giảng pháp có mười việc.

Những gì là mười?

1. Tuyên thuyết các pháp đều từ duyên khởi gọi là nhất thiết nghĩa, làm cho tất cả đều quay về.

2. Dùng trí hạnh đã tích tập để diễn thuyết về các sự sở hữu đều như huyễn hóa.

3. Lại nói các pháp tất cả vốn không.

4. Luận bàn các kinh luôn ở trong sự rộng lớn của trung đạo, không có bờ mé.

5. Tất cả các sự nghiệp, sở hữu đều không hề chấp trước.

6. Lại thuyết về các pháp bền chắc bất hoại như kim cương và tất cả các nghĩa mà Như Lai tuyên thuyết.

7. Lại nói về các sự an nhiên tịch tĩnh.

8. Lại diễn thuyết về các pháp vốn không chỗ sinh.

9. Giảng tất cả pháp vốn bình đẳng từ một gốc thanh tịnh.

10. Nói về sự không hòa hợp tạo thành.

Đó là mười việc giảng thuyết của Bồ Tát.

Bồ Tát thanh tịnh có mười việc.

Những gì là mười?

1. Tâm tánh vốn tịnh, không có nhiễm ô.

2. Trừ bỏ các kết sử, hồ nghi, do dự nên Bồ Tát luôn trong sáng.

3. Bỏ các sự chìm đắm và sáu mươi hai tà kiến.

4. Chỗ hành hóa về oai nghi, tu tập lễ tiết, vui thích phổ trí và các thông tuệ minh mẫn.

5. Các chỗ biện biệt thanh tịnh vời vợi, dũng mãnh sáng soi.

6. Tu hạnh Bồ Tát theo bốn vô sở úy.

7. Tất cả chỗ đi ở đều không có dấu vết.

8. Khuyến chư Bồ Tát nguyện hành tu tập, nẻo dụng không nhiễm ô.

9. Trăm tướng công huân, ba mươi hai việc của bậc Đại Sĩ đều chí cầu nơi đạo vô thượng chánh chân.

10. Về nơi pháp thanh tịnh, trang nghiêm tất cả công đức của gốc tịnh.

Đó là mười việc thanh tịnh của Bồ Tát. Bồ Tát trú ở đây thì đắc thành sự thanh tịnh vô thượng của Chư Phật.

Có mười việc về pháp ấn của Bồ Tát. Bồ Tát Đại Sĩ do pháp ấn mà đầy đủ tuệ Bồ Tát, mau chóng thành tựu đạo vô thượng chánh chân, làm bậc Tối Chánh Giác.

Những gì là mười?

1. Bồ Tát biết rõ vạn vật đều là khổ, khổ càng thêm khổ, phiền não lại càng phiền não, ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ… tuy gặp các nạn này nhưng vẫn siêng cầu Phật Pháp, tâm không dao động, cũng không trái bỏ.

2. Hạnh Bồ Tát không hề sợ hãi, chẳng tâm lo lắng, không xả bản nguyện cũng chẳng bỏ đại trí. Thông đạt tất cả và tâm chẳng hề trái với chỗ cốt yếu của Phật Đạo. Phàm phu mê hoặc quyến luyến với trần lao, ái dục của mình.

Tu gốc bất thiện, mắng chửi, hủy nhục và khinh chê Bồ Tát, nói lời thô ác, thậm chí còn ném gạch quăng đá, lại dùng dao gậy xâm tổn. Bồ Tát gặp các sự việc như vậy nên chí cầu Phật Đạo, chưa từng chán bỏ. Hạnh của Bồ Tát thường hành nhẫn nhục, nhiều tâm nhân hòa, làm theo lời dạy của Kinh Điển, cũng siêng năng, nhẫn nhục, đầy đủ chánh hạnh.

3. Lại nữa, Bồ Tát ấn ban tuyên pháp thâm diệu của Chư Phật. Ở nơi nhất thiết trí thì khiến mọi người nhập vào trí tuệ của mình. Chỗ sinh ra đều đầy đủ, giáo hóa mọi người khiến họ đều thích pháp.

4. Lại nữa, Bồ Tát ấy quán về bản thể tuệ, đạt đến tính từ hòa, hưng khởi phổ trí: Ta sẽ thành Phật đạo vô thượng chánh chân, làm bậc Tối Chánh Giác.

Quán sát chúng sinh, theo dõi khắp cùng các khổ nạn trong năm đường là: Ưu, não, sầu, lo, khiến họ phát tâm đạo, hân hoan cùng tột, thêm tâm thuần tín. Vui mừng như thế thì sự tinh tấn càng vững bền.

5. Lại nữa, Bồ Tát ấy đi vào trí tuệ không ngằn mé của Như Lai, không ra ngoài cảnh giới của Như Lai Thánh minh không thể nghĩ bàn. Nghe Chư Phật Thế Tôn tuyên thuyết kinh đạo cũng không bờ mé. Phật trí vô hạn, ở nơi các văn tự không tăng không giảm. Phân biệt các nghĩa, không trái với sự chỉ dạy của Phật.

6. Lại nữa, Bồ Tát ấy ưa thích pháp đạo vô thượng chánh chân, ưa thích nghĩa sâu xa, đạt đến trí tuệ vi diệu vô cực. Vì sùng mộ đạo vô thượng nên hưng khởi nhiều điều như vậy, ân cần, cẩn mật chưa từng trái xa. Tất cả chúng ma và quyến thuộc của nó, các kẻ dị học, ngoại đạo thù địch không dám đương đầu, chưa từng xả bỏ tất cả tâm trí và nẻo hành hóa của Bồ Tát. Lợi ích như vậy chưa từng giảm sút.

7. Lại nữa, Bồ Tát ấy lúc hành đạo chưa từng hoảng sợ, không tiếc thân mạng, phát tâm thông tuệ, tu nhất thiết trí lấy đó làm đầu. Họ đều được ánh sáng của Chư Phật chiếu sáng, không bỏ đạo nghĩa, không xa thiện hữu.

8. Lại nữa Bồ Tát ấy thấy thiện nam, tín nữ nào cầu học đại thừa, siêng năng tu hành, sùng mộ Phật Pháp, kiến lập gốc đức, thọ nhất thiết trí chưa từng xa rời.

9. Lại nữa, chỗ đi lại của Bồ Tát ấy tâm luôn bình đẳng với chúng sinh. Cũng với trí tuệ bình đẳng vì các chúng sinh mà ban tuyên Kinh Điển, đạt đến đạo vô thượng chánh chân. Chí hướng Bồ Tát không hề thoái chuyển và luôn hưng khởi đại từ bi tâm.

10. Lại nữa, Bồ Tát ấy xem Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều là một. Họ đem các gốc đức phụng thờ Chư Phật, quán các mẫn tuệ mà chưa từng đoạn dứt.

Đó là mười ấn chứng của Bồ Tát. Bồ Tát dùng ấn chứng này thì mau chóng thành tựu ấn pháp Chánh Giác vô thượng.

Tuệ quang của Bồ Tát có mười việc.

Những gì là mười?

1. Bồ Tát Đại Sĩ nhất định sẽ mau chóng thành tựu đạo vô thượng chánh chân.

2. Dùng Phật Đạo chiếu khắp tất cả.

3. Thường gặp Chư Phật Bình Đẳng Chánh Giác.

4. Biết rõ chỗ sinh và tử của chúng sinh.

5. Hiểu rõ tất cả pháp phẩm Kinh Điển.

6. Phát tâm Bồ Tát, thường huân tập theo thiện hữu.

7. Phân biệt chỗ tích lũy được các gốc đức, trí rõ ấn pháp.

8. Thường gặp Chư Phật, hiểu rõ sự khai hóa các loài chúng sinh.

9. Lập địa Như Lai, tuyên dương pháp môn Phật Đạo không thể nghĩ bàn.

10. Hiểu rõ Chư Phật về sự tùy thời kiến lập đầy đủ rộng khắp các độ vô cực.

Đó là mười tuệ ánh sáng của Bồ Tát.

Có mười hành vô lượng nơi tất cả chúng sinh, hàng Thanh Văn, Duyên Giác của Bồ Tát.

Những gì là mười?

1. Ở đây Bồ Tát tu bản tế hạnh, không thủ các nguyện, không cầu chứng quả.

2. Lại nữa, Bồ Tát ấy trồng các gốc đức, phát tâm khuyến giúp tất cả pháp giới, không chấp các pháp.

3. Lại nữa, Bồ Tát ấy lúc hành đạo, quán các chốn hành như huyễn hóa, các pháp vắng lặng, tâm không mê mờ. Chư Phật cũng vậy.

4. Lại nữa, Bồ Tát ấy trừ khử sự chấp trước, vọng tưởng của chúng sinh. Ở trong vô số kiếp, tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ đại nguyện, không khởi biếng nhác.

5. Lại nữa, Bồ Tát ấy phụng hành các pháp mà không hề dính mắc. Các pháp thị hiện cũng đều vắng lặng, cũng không diệt độ mà đều có đầy đủ nhất thiết trí giáo.

6. Lại nữa, Bồ Tát ấy biết rõ các vọng tưởng cùng nguyện vô tưởng, tuyên dương chốn hành chân đế từ đầu đến cuối ở trong vô số kiếp.

7. Lại nữa, Bồ Tát ấy hiểu tất cả các pháp đều không sở hữu. Tuy hiểu rõ cái không ấy cũng vốn không mà không xả bỏ đạo hạnh, cầu các pháp Phật.

8. Lại nữa, Bồ Tát ấy lúc phát tâm thì liền vào khắp ba cõi, cũng đều hiểu rõ đầy đủ nghĩa lý ba đời. Chỗ thấu đạt của tâm Bồ Tát ấy ở nơi trung đạo rộng lớn, không một chỗ nào mà không thông đạt.

9. Lại nữa, Bồ Tát ấy dùng một thân người ở vô số kiếp nơi sinh tử mà hành đạo Bồ Tát kiến lập chí nguyện ở nơi nhất thiết trí. Ví như vì một người mà nhẫn chịu các lao nhọc và vì mọi chúng sinh mà cũng nhẫn chịu như vậy. Kiến lập đại đạo rốt cùng không hề chán mệt, chỉ vì các đều thấy được sự chán khổ ở vị lai.

10. Lại nữa, Bồ Tát ấy đầy đủ hạnh Bồ Tát mà chẳng chịu mau chóng thủ chứng đạo quả vô thượng chánh chân. Chỉ vì tất cả chúng sinh mà các vị đi khắp nơi chốn để khai hóa, tạo lợi lạc cho vô số các loài khiến họ sống trong Phật Đạo.

Đó là mười hạnh vô lượng của Bồ Tát.

Bồ Tát có mười việc tâm chẳng khiếp nhược mà phát tâm đạo.

Những gì là mười?

1. Bồ Tát tự nghĩ: Tất cả các ma và chúng Thiên ma lúc gặp ta sẽ bị hàng phục, tâm ta không hề khiếp nhược. Ta sẽ dùng chánh pháp để hàng phục ngoại đạo. Hóa thân ta sẽ khiến các cảnh giới của chúng sinh hoan hỷ, tâm không khiếp nhược, đầy đủ tất cả các độ vô cực, hoàn mãn pháp giới.

2. Vì các chúng sinh mà tích lũy, huân tập đầy đủ các phẩm công đức, đạo vô thượng chánh chân ấy là đại tinh tấn. Tuy khó biện biệt nhưng đó cũng là đại nghiệp.

3. Hạnh Bồ Tát không hề khiếp nhược, khai hóa tất cả cảnh giới chúng sinh, tùy thuận chúng sinh khiến họ theo quy cũ, vì tôn sùng sự khuyên dạy.

4. Mười phương Thế Giới vô số chủng loại có hình mạo và sự ăn mặc đều khác nhau. Bồ Tát vào trong đó tùy thuận sở thích của họ, ở trong đó mà thành Tối Chánh Giác.

5. Lại nữa, Bồ Tát ấy tâm tự nghĩ: Chỗ ta từng học, tu hạnh Bồ Tát thì đều từ bản thân mình mà ra. Nếu có người đến cầu xin tay chân, mắt mũi, thịt xương, tủy não, vợ con, trai gái, voi ngựa, xe cộ, quốc ấp, thành quách, quyến thuộc, tôi tớ… thì đều có thể đem cho hết, không trái ý người.

Thấy mọi người đến có điều cầu xin thì phát tâm tùy thuận theo chỗ ưa thích của họ mà không khởi tâm chán ghét. Bồ Tát ấy muốn an tất cả chúng sinh nên ôm tâm thương xót. Bồ Tát đã bố thí thì không vọng cầu mà lấy đại bi làm đầu, quay về từ bi vô cực, không hề hoảng sợ.

6. Lại nữa, Bồ Tát này huân tu hạnh ấy thì pháp Phật ở ba cõi, chúng sinh, Cõi Phật, các Thế Giới chúng sinh, cảnh giới hư không, âm thanh các pháp đều là vắng lặng, quy hướng diệt độ. Trong khoảng một niệm thì các pháp dần dần tỏ rõ sự tương ưng bình đẳng, phân minh biết rõ, thành Tối Chánh Giác.

7. Tất cả đều là sự thị hiện, ví dụ, khuyến trợ thần thông, tu hành chứng đắc, không một niệm nào không nghĩ đến việc không phân biệt, điều tiết có độ lượng, khiến họ không chấp giữ nơi tài nghiệp, không tạo nhân duyên, không hề phân biệt cũng chẳng phải không phân biệt.

***