Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh độ Thế Phẩm

PHẬT THUYẾT

KINH ĐỘ THẾ PHẨM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN HAI MƯƠI MỐT
 

Tinh tấn thanh tịnh của Bồ Tát có mười việc.

Những gì là mười?

1. Thân tu hành tinh tấn thanh tịnh, cung kính tự quy về các Bồ Tát đó là chúng Hiền Thánh tịch định theo Phật.

2. Miệng nói về diệu lực của tinh tấn. Nghe được điều nên giảng thông suốt của các Như Lai tức đều nhớ nghĩ, thọ trì. Khen ngợi công đức của Chư Phật, đem điều đúng như pháp đã nghe vì các chúng sinh giảng nói, không cho là mệt nhọc.

3. Tâm niệm trong sạch, từ, bi, hỷ, xả, thiền định giải thoát, định ý chính thọ, chẳng bỏ phương tiện, chí không khiếp nhược.

4. Thường tu tinh tấn, chẳng mang tâm dua nịnh, tiến đến hạnh thanh tịnh, tâm ý chân chất ngay thẳng, các chỗ nên làm phải hành trì thuận hợp.

5. Chí tính siêng năng, hòa nhã, chỗ đi đến thường biểu hiện sự siêu vượt.

6. Tuệ ấy tăng dần, các pháp thanh tịnh đều tỏ rõ ánh sáng. Không ngăn cấm, chẳng hư dối, bố thí điều phục tâm, biết rõ, từ hòa, giới lãnh hội thí ban cho vĩnh viễn không phóng dật, điều đã lãnh thọ thì chẳng phế bỏ.

7. Thường đến nơi Phật thọ hàng phục ma oán, đó là tinh tấn thanh tịnh.

8. Đoạn trừ dâm, nộ, si, ái dục, trần lao, các chấp trước tà kiến, ấm cái ngăn ngại, thành tựu ánh sáng tuệ, thường tư duy kỹ, chứng được tâm thiện sáng tỏ, chẳng gắn với phiền não, chỗ tạo nghiệp đã hết, nên có thể đạt được pháp không ứng chẳng ứng của Chư Phật. Đó là siêng tu hành.

9. Tâm đã lãnh nhẫn thì luôn luôn hoan hỷ. Thân, miệng, tâm bình đẳng trong cái nhìn và không nhìn, quán sát rõ ràng, nhận biết pháp giới khắp trùm tùy theo chỗ nhận biết ấy tạo sự thuận hợp, thành tựu được chỗ thấu tỏ về pháp.

10. Dùng sự dũng mãnh, từ hòa để vượt qua các trụ địa. Ưa thích lời nói của Chư Phật, hiểu được thân Phật không có các lậu. Hiện đến nhập thai, sinh ra cõi tục, bỏ nước bỏ ngôi, thành đấng Tối Chánh Giác, chuyển pháp luân, thị hiện đại diệt độ và đầy đủ hạnh Phổ Hiền.

Đó là mười tinh tấn thanh tịnh của Bồ Tát.

Bồ Tát thiền tịnh có mười việc.

Những gì là mười?

1. Thường muốn xuất gia, chí giữ một tâm thì đó là thanh tịnh.

2. Bỏ tất cả tham, gặp được bạn lành, đúng thời đạt đến tịch tĩnh, bình đẳng nhận biết rõ đạo.

3. Quen ở nơi vắng lặng, tu hạnh thanh khiết, chẳng chấp nơi ta người, cũng không dấy khởi ham thích.

4. Trừ các ngủ nghỉ, từ bỏ mọi thứ náo loạn, ưa thích tĩnh lặng.

5. Tâm tinh tấn tu tập, giữ gìn các căn.

6. Trí tuệ nhất tâm, chẳng vì sự ngăn che trở ngại của mọi hiểm nguy và của những kẻ hung ác, dua nịnh.

7. Đường đạo giác ngộ luôn ứng hợp tự tại.

8. Tất cả chỗ tu đều dùng tuệ quán sát, luôn tạo sự nhất tâm, dùng phương tiện hội nhập thế gian, đi vào Dục Giới, có chỗ phát khởi, hiện bày thần thông.

9. Phân biệt các căn của chúng sinh để khiến cho họ nhập vào nẻo giác ngộ.

10. Ưa sự thanh đạm, vô sở hữu, đạt đến định ý của Đức Phật. Đó là mười thiền tịnh của Bồ Tát.

Bồ Tát trí tịnh lại có mười việc.

Những gì là mười việc?

1. Dùng trí tuệ thanh tịnh hiểu rõ báo ứng, chẳng mong cầu phước báo, hóa độ tất cả.

2. Thâu tỏ những điều mắt thấy, thường giữ tâm an hòa, chẳng tranh tụng. Biết rõ chỗ không đoạn tuyệt mà cũng chẳng cho là thường còn.

3. Vào với nhân duyên, tùy theo tuệ chân đế, bỏ các tà kiến, thu giữ chúng sinh chưa từng rời bỏ.

4. Nhìn thấy tâm niệm nẻo hạnh của muôn loài, quán xét trần cảnh giống như huyễn hóa, đem biện tài đại tuệ vào với Thánh minh là trí tuệ thanh tịnh.

5. Phân biệt chương câu, các điều giảng nói không chướng ngại, xa lìa tất cả ma, các dị học của ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, nhập vào tuệ phương tiện của các Đức Như Lai.

6. Thấy Chư Phật thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh.

7. Nhìn các pháp vắng lặng, quán sát các cõi tự nhiên như hư không.

8. Trí tuệ sạch trong rộng khắp, hội nhập vào trí này thì đạt được tướng vô vi, chứng đắc Tổng trì, biện tài giảng nói thông suốt.

9. Trụ ở quyền phương tiện, nói các độ vô cực, chỗ có thể bước đi thì vượt hẳn mọi người. Luôn giữ lấy nhất tâm, thấu tỏ được các pháp.

10. Trí tuệ như Kim Cương, chẳng mang tâm sân hận, không tư tưởng sợ hãi là trí tuệ thanh tịnh, là đỉnh trí tuệ của các pháp Thánh.

Đó là mười trí tuệ thanh tịnh của Bồ Tát.

Đại Từ thanh tịnh của Bồ Tát có mười việc.

Những gì là mười?

1. Từ bi bình đẳng với chúng sinh, tâm thanh tịnh vô hạn.

2. Thường hành tâm bi, vì mọi người thể hiện sự gánh vác cứu giúp.

3. Nuôi dưỡng vỗ về, đem thân từ hòa hộ trì.

4. Ra sức cứu độ mọi khổ nơi sinh, lão, bệnh, tử của chúng sinh.

5. Chẳng bỏ hữu tình, hưng khởi các gốc đức.

6. Hành hóa theo tâm nhân từ, giải thoát, có thể đoạn trừ hết mọi phiền não, ái dục của chúng sinh.

7. Chẳng quên ý đạo, dẫn dắt chúng sinh nhập vào thông tuệ, không hại muôn dân.

8. Bày khắp ánh sáng bình đẳng, phổ biến tâm từ như hư không.

9. Hộ trì tất cả, tuân tu tâm bi.

10. Giáo hóa đúng theo hạnh từ theo chân đế vô lậu, nhờ đó được nhập vào cảnh giới tịch nhiên của Bồ Tát.

Đó là mười từ tịnh của Bồ Tát.

Bồ Tát có mười đại bi thanh tịnh.

Những gì là mười?

1. Bồ Tát đại bi rộng lớn vì thân mình, luôn hiện tâm bi không chán.

2. Gặp các khổ não, chẳng cho là trở ngại ràng buộc. Thương xót chúng sinh nơi các đường ác, nơi tám nạn khổ.

3. Giả sử sinh vào các chốn đó thì Bồ Tát gắng sức cứu độ, nếu sinh vào Cõi Trời, người thì Bồ Tát hưng khởi tâm đại bi thanh tịnh, tuyên giảng pháp vô thường.

4. Thương xót đến tất cả chúng sinh rơi vào tà kiến, nên ở trong vô số kiếp, luôn mặc lấy áo giáp đức, chẳng bỏ rơi kẻ chưa được độ.

5. An định, không thoái chuyển, khuyên dẫn chúng sinh khiến họ đạt được an ổn lớn.

6. Hành nghiệp đầy đủ tâm không vọng cầu.

7. Tâm từ thanh tịnh của mình thương xót đến những người điên đảo, ở đời vô trí, khiến họ xa lánh mọi chấp trước, giảng nói pháp đúng thời. Tất cả các pháp vốn thanh tịnh, tự nhiên, đều hư dối không thật, vì sự cấu nhiễm của các khách trần phiền não.

8. Bồ Tát biết thế nên đối với chúng sinh hưng khởi đại bi, khiến cho người không thanh tịnh luôn đạt được chốn thanh tịnh.

9. Bồ Tát hiển hiện ánh sáng vô cấu, vì họ giảng nói pháp, phân biệt các pháp. Cũng như dấu chim bay giữa hư không, chúng sinh đối với tất cả kinh nghĩa này, tối tăm nên chẳng hiểu được.

10. Bồ Tát vì vậy hưng khởi tâm đại bi vì họ thị hiện đại tuệ, hiện rõ con đường giải thoát theo chân đế.

Đó là mười đại bi thanh tịnh của Bồ Tát.

Bồ Tát có mười việc hoan hỷ thanh tịnh.

Những gì là mười?

1. Vui vẻ phát đại tâm, lấy hoan hỷ làm thanh tịnh.

2. Đem tất cả sở hữu bố thí mà chẳng tham tiếc, không điều bức não, chẳng hề khiếp nhược.

3. Chỉ dạy kẻ phá giới, chúng sinh có hành vi ác đều có thể nhẫn chịu vì thông tỏ các nguyện.

4. Hành dụng được nghĩa kinh nên chẳng tiếc thân mạng, chẳng dấy khởi phiền não. Đó là hoan hỷ thanh tịnh.

5. Dứt trừ phiền não, vui nơi pháp lạc, lìa bỏ tất cả các thứ vui tham dục.

6. Hiển bày cho chúng sinh yếu nghĩa của Kinh Điển, khiến họ xả bỏ tham cầu, lợi dưỡng.

7. Thấy Phật không chán, luôn phụng kính, tự quy y nơi pháp an lành là niềm vui thanh tịnh.

8. Dùng thiền nhất tâm, đến với cửa giải thoát, đạt định ý chánh thọ nên hoan hỷ.

9. Lại dùng pháp này khai hóa người khác đạt được tĩnh lặng từ hòa.

10. Thiền không sân hận lấy tuệ làm tối thượng, bỏ các tà kiến, đủ hạnh Bồ Tát là hỷ tịnh.

Đó là mười hỷ thanh tịnh của Bồ Tát.

Xả thanh tịnh của Bồ Tát có mười việc.

Những gì là mười?

1. Tất cả chúng sinh tham vui trong hữu vi, Bồ Tát giáo hóa khiến họ đến với vô vi. Đó là xả tịnh.

2. Gốc tịnh, ở tại pháp vô dục, Bồ Tát hội nhập thế gian, thấy kẻ chẳng phải pháp khí, cũng không khởi tâm nguy hại, thấy kẻ pháp khí thì dùng phương tiện để hiển hiện.

3. Chí cầu nơi pháp thanh tịnh, chẳng ái mộ việc của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, hàng hữu học, vô học.

4. Chẳng tham tất cả vui thích của ái dục.

5. Ở nơi nghiệp phiền não mà tâm luôn chuyên tinh tại Kinh Điển.

6. Không chán bỏ sinh tử theo như hàng Thanh Văn, Duyên Giác.

7. Chẳng trụ nơi thế gian, chẳng ưa sự bàn luận của thế tục, ngôn từ nguy hại đến kẻ khác, chẳng lìa bỏ pháp tùy thời.

1. Thanh Văn, Duyên Giác dùng lời nói làm loạn mất Bồ Tát đạo thì chẳng cùng họ đồng hành. Bồ Tát luôn hóa độ chúng sinh đúng theo sức giải thoát của mình, dứt hẳn các nhập nơi bốn đại tịch diệt.

2. Đối với người không biết pháp, Bồ Tát ứng thời quán xét. Vì Bồ Tát đã từng hiện việc hóa độ muôn người ấy địa Như Lai.

3. Chỗ quán của Bồ Tát, do rời khỏi hai ấy, không mất đi, không phơi bày, chẳng cất lên, chẳng hạ xuống, nên lìa được nhiều nỗi lo ngại của vọng tưởng, thường được tịch định ở pháp chân đế, chứng được pháp nhẫn.

Đó là mười xả thanh tịnh của Bồ Tát.

Nghĩa lý của Bồ Tát có mười việc.

Những gì là mười?

1. Như kẻ nghe pháp lấy gì làm cốt yếu để hiểu rõ nghĩa pháp, kẻ ấy phải thấu giải được nghĩa không, nên biết mọi việc vốn không.

2. Phân biệt các pháp, tu theo nghĩa tịch tĩnh.

3. Vì sống thanh đạm an nhiên nên rõ được sự không sở hữu.

4. Chẳng trụ chấp nơi các âm thanh.

5. Làm đúng nơi chân đế, bình đẳng với ba đời.

6. Nhập vào pháp vị bình đẳnh của pháp giới.

7. Diệu nghĩa vốn không ấy là chỗ quy hướng của Như Lai.

8. Thấu rõ bản tế của chân đế.

9. Rõ nghĩa của đại diệt độ là đoạn trừ khổ nạn.

10. Tu hạnh Bồ Tát, trừ bỏ các thọ. Đó là mười nghĩa lý của Bồ Tát.

Bồ Tát có mười pháp.

Những gì là mười?

1. Bồ Tát tu pháp chí thành thì nói và làm tương ưng, không ham tranh tụng.

2. Từ bỏ tất cả các mọi tham cầu, tranh tụng.

3. Tiêu trừ lửa dục nơi thế gian. Đó là sự vắng lặng của Bồ Tát.

4. Lìa các phiền não, bỏ hẳn tham dục.

5. Diệt các ái kết cấu uế, không nên nhớ nghĩ.

6. Nhập vào pháp vị bình đẳng của pháp giới.

7. Không pháp sinh khởi bình đẳng như hư không.

8. Tu tập pháp vô vi, buông bỏ các nhân duyên sinh khởi liên tục.

9. Đã thấu được bản tịnh, rõ pháp tự nhiên, không bị nhiễm ô.

10. Đoạn tất cả bệnh, đến được pháp diệt độ, hưng khởi hạnh Bồ Tát và nắm giữ để hành trì.

Đó là mười pháp của Bồ Tát.

Bồ Tát tích đức lại có mười việc.

Những gì là mười?

1. Nếu có thể khuyên người phát tâm Bồ Tát là tích lũy công đức, chẳng khiến đoạn tuyệt Tam Bảo, khuyên nơi mười việc, thuận theo phước hạnh.

2. Từ bỏ tất cả các pháp bất thiện, tu theo Kinh Điển chánh chân, hưng hiển trí tuệ, đó là phước của Bồ Tát.

3. Bồ Tát ấy ở ba cõi không ai bì kịp, huân tu công đức không chán, dốc cứu độ tất cả chúng sinh, mọi thứ sở hữu bên trong lẫn bên ngoài đều có thể ban cho. Đó là xả bỏ tất cả nghiệp tham cầu.

4. Đầy đủ tướng tốt, tu đại tinh tấn, chẳng hề thoái chuyển, cắt đứt tâm ý gây tổn hại mọi khổ nạn ràng buộc, luôn nghĩ đến cái gốc đức thượng, trung và hạ và nên khuyến trợ Phật Đạo.

5. Dùng quyền phương tiện, thọ nhận lời dạy thanh tịnh, bỏ các tà kiến, tu các gốc đức nên luôn khởi đại bi.

6. Thị hiện hạnh của Bậc Chánh Sĩ, một mình bước đi, phụng kính quy mạng theo các Đấng Như Lai, thấy các Bồ Tát thì cung kính như Phật.

7. Đem an ổn cho muôn loài với sự hộ trì kiên cố, tích lũy công đức trong vô số kiếp đều là tạo gốc đức.

8. Đạo ở nơi thân mình, xem như trong lòng bàn tay.

9. Bố thí cho một người rồi khai hóa họ, chẳng mang tâm lo buồn cũng chẳng hối hận. Đối với tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, trước bố thí, sau đấy mới khai hóa.

10. Tập hợp các gốc đức, điều phục tâm ý, thấy đạo như thấy lòng bàn tay, chẳng mang tâm sầu lo, hối hận.

Đó là chí nguyện quảng đại của Bồ Tát, chí nguyện ấy như hư không, tích lũy được mười đức, nhập vào với đại trí rộng lớn vô cực.

***