Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh độ Thế Phẩm

PHẬT THUYẾT

KINH ĐỘ THẾ PHẨM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN MỘT
 

Nghe như vậy!

Một thuở nọ, Đức Phật ở trên tòa Sư Tử Liên hoa tạng tại giảng đường Phổ Quang của Đạo Tràng Pháp nhàn thuộc nước Ma Kiệt. Đức Phật đã thấu tỏ về chân đế, không còn nhị hành, đã vượt qua pháp vô tưởng.

Sự đi ở của Đức Phật đều đạt đến bình đẳng, tất cả Chư Phật đi ở, tới lui không hề ngăn ngại, cũng không hề bị che chướng. Pháp của Chư Phật không hề thoái chuyển, sự hành dụng không một ai có thể sánh kịp, phụng kính chỗ thấy không thể nghĩ bàn.

Thị hiện bình đẳng khắp ba đời, thân ấy hiển hiện trùm khắp Thế Giới, phân minh các pháp, tuệ hết do dự, đầy đủ các pháp, ngồi nơi gốc Bồ Đề, thông suốt Kinh Điển, dứt nghi Chánh Giác, không nghĩ đến thân. Tất cả Bồ Tát ở đây chí nguyện đến đạo tuệ và có hạnh Phật không hai, lấy việc cứu độ qua bờ bên kia là việc bậc nhất, thành tựu cửa giải thoát mà Như Lai kiến lập.

Cõi nước của Chư Phật không có hạn lượng, chỗ hành bình đẳng, pháp, cảnh tu tập rộng lớn như không, mười phương cõi nước không thể tính đếm trăm ngàn ức na do tha vi trần số chư Bồ Tát ở đây cũng là như vậy. Các Bồ Tát Đại Sĩ này đều là những vị Nhất sinh bổ xứ, vị lai sẽ thành đạo vô thượng Chánh Giác. Mỗi một vị đều ở Cõi Phật nơi mười phương khác nhau, đều đến cõi này tham dự pháp hội.

Tất cả đều là những bậc Khai sĩ, đều mở mắt tuệ và cửa công đức vô lượng, khai hóa tất cả chúng sinh các cõi, thuận theo luật mà dẫn đạo bằng phương tiện quyền xảo, biết rõ tùy thời. Trú pháp Bồ Tát trong các lầu gác, giảng đường của tất cả Thế Giới, vượt lên trên tuệ định mà quán cõi diệt độ.

Vâng kính đạo tuệ, trừ bỏ tất cả ngôn từ, hành ấm và chỗ đáng trừ bỏ. Các vị biết rõ nhân duyên thích ứng thích ứng thu giữ hóa độ chúng sinh vào vô lượng đạo. Vào trong ấy nhưng chỗ làm, họa phước và báo ứng của tất cả chúng sinh đều không thể hủy hoại.

Phân biệt đúng thời, chỗ dùng quán sát luôn vô sở đắc, biết rõ chí tánh của chúng sinh các cõi, thấu rõ các căn, thức tỉnh kẻ cần thức tỉnh, tùy theo nhân duyên, tùy bệnh cho thuốc. Quá khứ, hiện tại, vị lai Chư Phật ban tuyên nghĩa lý chương cú thì luôn lãnh thọ phụng hành.

Bồ Tát đã nhận sự thọ ký ấy rồi thì luôn hành bình đẳng, sáng rõ chánh tà, chỗ sẽ quay về là vào trong đời này mà độ đời với vô lượng pháp, tự vào chỗ chánh chân, đều đã quán rõ và thông giải hữu vi cùng vô vi không có hai.

Quá khứ, hiện tại, vị lai Chư Phật đều vào Đạo Tràng của tất cả Như Lai, một thời ngự đạo, đạt bình đẳng giải, thành Tối Chánh Giác. Các vị đều thị hiện tâm nhàn, tâm an, đã rõ Phật Đạo, không lìa bỏ chúng sinh phát tâm. Vào tâm một chúng sinh thì có thể vào khắp chỗ biết, chỗ thích của tất cả chúng sinh. Tự ở trong trí tuệ ấy mà thân Bồ Tát không hề lay chuyển, đạt đến phổ trí và các tâm thông tuệ.

Trú nơi quả vị ấy mà không hề thoái chuyển, nẻo hành hóa của Bồ Tát tinh tấn không hề chán mệt, tới lui khắp cùng là tuệ không chỗ hành. Vì tất cả mọi người mà ở tại sinh tử trong vô số kiếp, biết rõ và kiến lập khó tính kiếp số, khó mà thấy gặp. Chư Bồ Tát đích thực rất khó gặp, thường chuyển pháp chưa từng chán mệt, khai hóa chúng sinh làm cho họ nhập vào luật giáo.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, chư Như Lai nghiêm tịnh cõi ấy, tác thành chúng sinh, đầy đủ bản hạnh, thệ nguyện đã tròn, công hạnh thù thắng. Chư Bồ Tát và các học sĩ khác như vậy đều có thể tham vấn mười phương Chư Phật với kiếp số vô hạn và tán thán vô cùng. Nguyên sơ của họ không có bờ mé, siêu vượt các chúng.

Các vị ấy là: Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Phổ Nhân, Bồ Tát Phổ Hóa, Bồ Tát Phổ Trí, Bồ Tát Phổ Nhãn, Bồ Tát Phổ Quang, Bồ Tát Phổ Quán, Bồ Tát Phổ Minh, Bồ Tát Phổ Anh, Bồ Tát Phổ Giác. Các vị như vậy nhiều như số vi trần không thể tính đếm trăm ngàn ức na do tha cõi nước Chư Phật.

Bồ Tát Phổ Hiền có chí nguyện thù thắng, thệ nguyện ấy đã thành tựu. Mỗi khi Chư Phật xuất thế thì Bồ Tát đều đến thỉnh cầu, biết rõ tùy thời và đều nắm giữ pháp nhãn giáo hóa của Chư Phật, không để cho sự giáo hóa của tất cả Như Lai bị đoạn mất. Chư Phật ra đời thì liền được thọ ký danh hiệu, cõi nước, thành Tối Chánh Giác.

Đã được vắng lặng rồi thì trụ nơi pháp luân, thị hiện làm Phật, không dính mắc vào Cõi Phật, nghiêm trị tất cả Thế Giới hung ác, uế trược khó trị, diệt trừ các họa phước ngăn ngại của chúng Bồ Tát, nhập vào pháp giới chánh đế không bị ngăn ngại.

Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền liền dùng chánh thọ tam muội Phật tạng vào khắp chỗ du hóa của mười phương Chư Phật, không một chỗ nào không khắp biến. Pháp, cảnh, giảng đường không một chỗ nào mà không thấu triệt. Cõi hư không ấy đều không bờ mé, mười phương cõi nước đều chấn động sáu cách.

Ánh sáng lớn ấy không đâu là không tỏa chiếu, vang lên âm thanh lớn không đâu mà không nghe thấu. Bồ Tát Phổ Hiền từ trong tam muội thấy chư Bồ Tát đều đến pháp hội nên rất vui mừng hân hoan.

Bồ Tát Phổ Trí thấy chư Bồ Tát đến vân tập cũng sinh vui mừng và đến trước Bồ Tát Phổ Hiền mà hỏi: Lành thay, Phật Tử! Nay chư Bồ Tát mười phương vân tập đến vì khát ngưỡng Kinh Điển và ngưỡng nhờ Đại Sĩ, như tối được sáng. Xin Đại Sĩ vì họ mà giảng thuyết về hạnh Bồ Tát từ đầu đến cuối, làm cho họ không còn nghi ngờ, người cuối cùng cũng đều được khai thị, như bệnh được thuốc, như mù được sáng.

Vì sao gọi chỗ nương tựa của Bồ Tát gọi là vô sở trước?

Sao gọi là Bồ Tát chưa từng có tưởng?

Sao gọi là hành?

Sao gọi là bạn lành?

Sao gọi là tinh tấn?

Sao gọi là khuyến tín?

Sao gọi là hóa độ chúng sinh?

Sao gọi là cấm giới?

Sao gọi là thọ ký?

Sao gọi là Bồ Tát không cầu tướng ngắn ngủi?

Sao gọi là nhập Như Lai?

Sao gọi là được vào tánh hạnh chúng sinh?

Sao gọi là được vào các Thế Giới?

Sao gọi là nhập vào kiếp số các niệm không chỗ nào mà không thấu đạt?

Sao gọi là là diễn thuyết thông việc ba đời?

Sao gọi là được nhập vào ba xứ?

Sao gọi là chỗ phát tâm không chán mệt, không thiếu sót?

Sao gọi là Bồ Tát biện biệt phân minh?

Sao gọi là Bồ Tát đạt đến tổng trì?

Sao gọi là Bồ Tát tuyên diễn Phật Đạo?

Bồ Tát Phổ Hiền vì nhân duyên thỉnh hỏi của Bổ Tát Phổ Trí và muốn làm cho những người vân tập đến đều được hiểu rõ nên khen ngợi: Lành thay các hội Bồ Tát! Hãy cùng lắng nghe! Bồ Tát có mười Pháp Sự có chỗ nương tựa mà không vướng mắc.

Những gì là mười?

1. Nương vào tâm Bồ Tát khiến cho không trái mất.

2. Nương vào bạn lành thường tu tinh chuyên.

3. Nương vào gốc đức mà trồng phước lạc.

4. Có thể phụng hành sự tùy thuận hóa độ vô biên.

5. Nương vào tất cả pháp vì không chỗ về.

6. Nương vào các thệ nguyện mà gần gũi đạo.

7. Chuyên hành các hạnh, huân tập đầy đủ.

8. Gần gũi các Bồ Tát nhất sinh bổ xứ.

9. Theo về các tâm Phật với sự hoan hỷ.

10. Phụng sự các Như Lai và tán thán như cha mình.

Đó là mười Pháp Sự của Bồ Tát có chỗ nương tựa làm vô sở trước không chỗ chấp trước, Bồ Tát mà trú ở đó thì mau chóng đạt đến chỗ nương tựa vô cực, đó là đại tuệ vô thượng của Như Lai.

Bồ Tát nói kệ tụng:

Nương mà không chỗ nương

Tự về với Chư Phật

Rõ pháp, không chỗ trông

Cho đến chỗ đại nguyện

Thấy Chư Phật hoan hỷ

Nương đó mà vâng kính

Nương nhờ chư Như Lai

Vì đủ đầy đạo hạnh.

Bồ Tát có mười việc chưa từng có tưởng.

Những gì là mười?

1. Nghĩ đến các gốc đức như nghĩ đến mình không khác.

2. Thân tích lũy điều thiện để ban rải cho chúng sinh.

3. Tất cả công đức giáo huấn dùng làm đạo tưởng.

4. Rõ thấu chúng sinh lấy làm đạo phẩm tưởng.

5. Nguyện cứu độ tất cả như cứu mình là nguyện tưởng.

6. Đều dùng các pháp thí.

7. Quán tất cả pháp như là pháp Phật.

8. Làm tất cả hạnh như hành thân tưởng.

9. Tất cả ngôn từ ở nơi chốn hành hóa không chỗ vọng tưởng.

10. Nhìn thấy Chư Phật tưởng như cha mẹ và đối với chúng sinh không có hai tưởng.

Này Tộc Tánh Tử! Chúng chư Bồ Tát chưa từng có tưởng, Bồ Tát trú ở đây thì mau chóng thành tựu vô thượng, đạt đến các gốc đức.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Vì tất cả tích đức

Nghĩ chúng sinh như mình

Quán sát khắp chúng sinh

Như pháp khí của đạo

Các chúng sinh lập nguyện

Bình đẳng không khác mình

Quy mạng nơi đạo pháp

Khiến đạt, không sinh theo.

Bồ Tát có mười việc hành dụng.

Những gì là mười?

1. Giảng thuyết, phân biệt về đối tượng hành của chúng sinh.

2. Cầu tất cả chốn hành các pháp.

3. Học rộng giới cấm theo đấy phụng hành.

4. Tích lũy nhiều gốc đức của các pháp.

5. Nhất tâm chuyên tinh, phụng hành tam muội.

6. Biết rõ Thánh tuệ chỗ phải quay về.

7. Ân cần vâng theo lời dạy Chư Phật không hề trái mất.

8. Đi đến các cõi vì muốn trang nghiêm cõi nước.

9. Noi theo thiện tri thức và luôn luôn cung kính.

10. Phụng Như Lai hạnh, kính như Sư Tử.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Tất cả có chốn hành

Phải khai hóa chúng sinh

Siêng cầu nơi các pháp

Mà phụng trì giới cấm

Tích lũy các gốc đức

Một tâm về định ý

Biết rõ tuệ Thánh minh

Chỗ hành tịnh cõi nước.

Bồ Tát có mười việc về bạn lành.

Những gì là mười?

1. Kiến lập đạo ý.

2. Thường tu gốc đức.

3. Nhập Độ vô cực Ba La Mật.

4. Ban tuyên đạo pháp.

5. Khai hóa chúng sinh.

6. Phân biệt biện tài.

7. Khen ngợi chúng sinh.

8. Trừ các vọng tưởng.

9. Ở chỗ không buồn chán.

10. Lập hạnh Phổ Hiền, vào tuệ Chư Phật tức là bạn lành.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Tâm kiến lập nơi đạo

Siêng năng tu gốc đức

Vào các độ vô cực

Ban tuyên các Kinh Điển

Khai hóa độ chúng sinh

Biện tài dứt các nghi

Xưng tán khắp muôn loài

Trừ sạch các tưởng nghĩ.

Bồ Tát có mười việc làm tinh tấn.

Những gì là mười?

1. Giảng thuyết khắp cùng cõi chúng sinh.

2. Biết rõ chỗ hướng về của Kinh Điển.

3. Nghiêm tịnh tất cả Thế Giới Chư Phật.

4. Luôn phụng hành các giới của Bồ Tát.

5. Thường nhẫn chịu tất cả các hoạn nạn.

6. Đoạn dứt những đau khổ nung nấu nơi ba đường dữ.

7. Hàng phục tất cả chúng ma và quyến thuộc của chúng.

8. Không làm cho chúng sinh mang tâm sân hận.

9. Luôn tuân theo mười phương Chư Phật Thế Tôn.

10. Thường gặp Chư Phật thì quy mạng và thọ giáo.

Này Tộc Tánh Tử! Đó là mười việc mà Bồ Tát hành tinh tấn.

Bồ Tát lại nói kệ tụng:

Quy mạng nơi Chư Phật

Nghiêm tịnh các Cõi Phật

Phụng tu hạnh Bồ Tát

Chịu tất cả khổ não

Đoạn khổ nạn ba đường

Hàng phục ma, quyến thuộc

Làm vui lòng chúng sinh

Thường gặp chư Như Lai.

Bồ Tát có mười việc khuyến tin.

***