Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đồng Tử Tô Bà Hô Thưa Hỏi

PHẬT THUYẾT KINH

ĐỒNG TỬ TÔ BÀ HÔ THƯA HỎI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Du Ba Ca La, Đời Đường
 

PHẨM BỐN

PHẨM PHÂN BIỆT CHÀY KIM CANG

VÀ THUỐC CHỨNG NGHIỆM
 

Lại nữa Tô Bà Hô Đồng Tử, vì ông và chúng sanh đời vị lai phát tâm niệm tụng pháp môn bí mật, nói pháp Bạt Chiết La, ông nên lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói rõ. Nếu muốn làm Bạt Chiết La, dài tám chỉ hoặc mười chỉ, hoặc mười hai Chân Ngôn chỉ hoặc mười sáu chỉ, hai mươi chỉ là tối thắng.

Nếu muốn thành tựu đại giàu có tự tại, cần thành tựu Trì Minh dùng vàng làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn cầu giàu có dùng tồn bạc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn cầu Hải Long Vương dùng thục đồng làm Bạt Chiết La.

Nếu cầu nhập A Tu La cung dùng cát đá tốt làm Bạt Chiết La.

Muốn thành tựu tất cả, dùng vàng, bạc, đồng hòa hợp làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn tồi phục chúng Dạ Xoa, dùng sắt làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn không bệnh, cầu tiền tài, dùng Thất Lợi Ni Mộc hoặc Rô Bà Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn cầu trị bệnh ma quỷ nhập điên cuồng, dùng Khư Địa La Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn cầu diệt tội dùng A Thuyết Tra Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn cần tồi phục ốn địch dùng Hại Nhơn Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn hàng phục cực ốn địch dùng xương người làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu pháp huyễn hóa dùng thủy tinh làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu pháp khiến người ghét nhau dùng Khổ Luyện Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu Long Nữ sẽ thương yêu dùng Long Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành pháp quỷ mị khiến người khốn đốn, bị đánh đập, dùng Tỳ Lê Lặc Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu pháp Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La v.v... dùng Thiên Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu pháp biến hình, dùng bùn làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu pháp Khởi Thi Quỷ, dùng Ca Diễm Mộc làm Bạt Chiết La.

Nếu muốn thành tựu pháp cầu tài dùng A Át Da Mộc làm Bạt Chiết La, hoặc dùng Long Mộc hoặc Vô Ưu Mộc.

Nếu muốn thành tựu pháp đối địch, dùng Thất Lợi Ni Mộc làm Bạt Chiết La, hoặc A Bà La Mộc, hoặc Yết Thuận Da Mộc hoặc Dương Mộc.

Nếu muốn thành tựu mọi điều vui sướng, dùng Bạch Đàn Mộc làm Bạt Chiết La, hoặc dùng Tử Đàn Mộc.

Như trên nói các pháp màu sắc chày Kim Cang nhất nhất phải làm năm chia sạch sẽ đẹp đẽ. Hành giả khi muốn niệm tụng dùng hương bôi, rải các thứ hoa tốt đẹp cúng dường, phát tâm đại từ bi, tay cầm chày Kim Cang niệm tụng. Pháp sự xong lại cúng dường, đem chày để nơi chân Bổn Tôn, lần nào cũng đều như vậy. Nếu không cầm chày Kim Cang mà tụng niệm thì không có thành tựu.

Vì sao vậy?

Vì Thiện Thần không gia bị, quỷ thần không sợ, các pháp sự khó được thành nghiệm. Nếu không đủ sức tạo chày Kim Cang, cần phải tác Kim Cang ấn, sau đó một lòng như pháp trì tụng cũng có thể thành tựu, không được tán loạn uổng mất công phu, cũng không nên tu các pháp riêng.

Lại nữa Tô Bà Hô Đồng Tử, phàm niệm tụng Chân Ngôn thành tựu được pháp có mười bảy loại thuốc:

Một là Hùng Hồng.

Hai Ngưu Hồng.

Ba Thư Hồng.

Bốn An Thiện Na.

Năm Châu Sa.

Sáu Đốt Căn.

Bảy là Bạt Chiết La.

Tám Ngưu Tô.

Chín Xương Bồ.

Mười Nậu Nõa Ngải Rị Ca.

Mười một Y Thường.

Mười hai Cổ Xoa.

Mười ba Lộc Bi.

Mười bốn Hoạnh Đao.

Mười lăm Quyến Sách.

Mười sáu Khải Giáp.

Mười bảy Tam Xoa.

Các vật trên đều đủ ba món thành tựu, giả sử trong các pháp Chân Ngôn dầu có nói các vật thành tựu, cũng không ngồi ba món, tùy theo ý ưa muốn mà làm không có sự sai khác.

Lại nữa Tô Bà Hô Đồng Tử, thế gian có các Tỳ Na Dạ Ca làm chướng nạn, thường xem các lỗi của người trì tụng, cần phải có trí huệ phương tiện xét biết.

Lũ ma có nhiều thứ, tóm lại mà nói có bốn loại, thế nào là bốn?

Một là tồi hoại bộ, hai là dã can bộ, ba là nhất nha bộ, bốn là long tướng bộ.

Tùy theo bốn bộ này sinh ra vô lượng Tỳ Na Dạ Ca quyến thuộc như sau: Bộ chủ Tồi Hoại Bộ là Đại Tướng, trong loại này có nhiều thứ hình trạng, có bảy A tăng kỳ làm quyến thuộc.

Nếu người trì tụng Chân Ngôn của Tứ Thiên Vương hộ thế, sẽ bị loại này làm chướng nạn.

Bộ chủ Dã Can Bộ tên là Tượng Đầu, có nhiều loại hình tướng, có mười sáu cu chi làm quyến thuộc. Nếu có người trì tụng Chân Ngôn của Ma Hê Thủ La Thiên Vương, loại này hay làm chướng nạn.

Bộ chủ Nhất nha bộ tên là Nghiêm Kế, có nhiều thân hình rất đáng sợ, có một trăm bốn mươi cu chi quyến thuộc làm tùy tùng. Người nào trì tụng Chân Ngôn của Đại Phạm Thiên Vương, Kiều Thi Ca, Nhật, Nguyệt Thiên Vương của Na La Diên, các Phong Thiên v.v... loại này hay làm chướng nạn.

Bộ chủ Long đầu bộ tên là Đảnh Hành, ở trong bộ này có nhiều hình không thể biết tên được, có một cu chi na do tha một ngàn ba đầu ma là quyến thuộc. Chân Ngôn Đạo Phật nói ra, người nào trì tụng bị loại này làm chướng nạn.

Lại con Ha Lị Đế Mẫu là Ái Tử hay làm chướng nạn người nào trì Chân Ngôn của Bán Chỉ Ca.

Lại con Ma Ni Hiền Tướng tên Mãn Hiền, ở trong Ma Ni bộ nói Chân Ngôn nếu có người trì tụng bị làm chướng nạn.

Như vậy các loại Tỳ Na Dạ Ca ở trong bốn bộ làm các chướng nạn, không ưa tu đạo khiến người trì tụng không thành tựu, tự biến hóa làm bốn bộ chủ Chân Ngôn vào Đạo Tràng nơi người trì tụng thọ cúng dường.

Trì Minh Vương lại thấy như vậy tức hồn bổn cung mà nghĩ thế này: Vì sao Như Lai cho loại kia thệ nguyện làm não loạn người trì tụng khiến pháp không thành, các chướng nạn giả sử Phạm Vương, Kiều Thi Ca, các Thiên Long v.v... cũng không thể phá chướng nạn này.

Hành giả chỉ gắng tâm tinh tấn phát đại thệ nguyện: Thế Tôn đã nói giáo pháp Đại Minh Chân Ngôn, con nay y pháp tu hành, mong phá nạn này.

Hành giả niệm xong biến số nên tác thành các việc Man Đà La, tác pháp xong các chướng kia tức thối tán không dám đương đầu.

Lại nữa Tô Bà Hô Đồng Tử, người trì tụng không nghe lời Thầy, trì tụng Chân Ngôn, cúng dường và Hộ Ma không y giáo pháp bị các loại ma rình tìm làm các chướng nạn khiến người trì niệm tâm thường do dự, khởi các niệm nghi vì niệm Chân Ngôn Minh Vương Chân Ngôn và cúng tụng mà bị như vậy.

Phát khởi niệm như thế nên ma tiện bề sai khiến, nói nhiều không thôi, nhiễm việc thế tục hoặc nói thành bại, nói chuyện cày cấy hoặc luận bàn danh lợi khiến tâm tán loạn, ví như người đi vào trong nước, ảnh vào trong nước hình cũng đi theo, bị Tỳ Na Dạ Ca v.v... nhập vào trong thân không lìa cũng như vậy.

Lại có Tỳ Na Dạ Ca khi tắm rửa nhập vào thân hoặc có Tỳ Na Dạ Ca khi niệm tụng nhập vào thân, có Tỳ Na Dạ Ca khi nằm, ngủ, nghỉ nhập vào thân, có Tỳ Na Dạ Ca khi cúng dường nhập vào thân, cũng như ánh sáng mặt trời chiếu vào hỏa châu có lửa phát ra, Tỳ Na Dạ Ca nhập thân hành giả cũng như vậy, khi niệm tụng khiến tâm tán loạn, tăng trưởng lẫy lừng, vô minh tham đắm cũng y như vậy.

Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Thủy Hành, khi tắm rửa pháp thiếu, tức được dịp nhập vào trong thân khiến người niệm tụng bị phải các bệnh như là khát, đói, ho, giải đãi, buồn ngủ, mệt mỏi, tứ chi nặng nề, giận dữ vô lý.

Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Thực Hương, khi dâng đồ hương thời nếu pháp thiếu tức được dịp nhập vào thân khiến người niệm tụng bị các bệnh như là tư tưởng lộn xộn, suy nghĩ này nọ, hoặc tưởng đàn bà, hoặc sanh giải đãi, hoặc tưởng đến chỗ tham dục khiến mất đạo nghiệp hoặc tưởng tiền bạc, ăn thịt uống rượu, phân biệt tốt xấu sang hèn, xem các cảnh sắc tham đắm, làm mất đạo tâm.

Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Đăng Đảnh, khi đốt đèn nếu thiếu pháp tức được dịp nhập vào thân khiến hành giả khởi lên các bệnh như là đau tim, nóng nảy hại tâm.

Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Tiếu Hương, khi dâng hoa pháp bị thiếu tức được dịp nhập vào thân khiến người niệm tụng khởi lên các chướng như là phót nóng nghẹt tmũi, chảy nước mũi, ở trong mắt đổ ghèn, xương xốt đau nhức, lại cãi cọ xa lìa bạn hữu.

Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Trang Kế, khi niệm tụng nếu thiếu pháp tắc tức tiện dịp nhập thân khiến người trì tụng khởi lên các bệnh như là phát nóng, bí tiểu.

Các Tỳ Na Dạ Ca nhập thân khiến tâm mê hoặc lấy Đông làm Tây, lấy Nam làm Bắc, làm ra các dị tưởng, hoặc hát xướng, hoặc không có duyên sự muốn đi chơi, tâm khởi bất định.

Khởi các tà kiến mà nói thế này: Hoặc nói không có đại oai Chân Ngôn, không có Thiên Đường không có thiện ác, cũng không giải thốt, sanh các tà kiến, thiện ác không khác, không có nhân quả, lấy tay hái cỏ, hoặc đào đất, ngủ thời há miệng, hoặc khởi dục tưởng hoặc tham vợ nhiều, nếu không ham ái tức bị ái, tham ái tức lại bị không ái, bị nhiều sự trái nghịch nằm thao thức không ngủ, muốn xâm phạm vợ con người.

Nếu ngủ được trong mộng thấy đại tùng sư tử, hổ lang, heo chó hiếp đáp, lừa ngựa mèo quỷ dã can, chim thú kinh khủng hoặc thấy người mặc áo rách đỏ hoặc thấy người trần truồng đen xấu xỏa tóc, hoặc thấy lõa hình ngoại đạo.

Hoặc thấy giếng ao khô cạn, hoặc thấy đầu lâu, hoặc thấy xương cốt, hoặc thấy nhà cửa sụp đổ, hoặc thấy ác nhân cầm khí giới khủng bố lại xâm hại, thấy đá lở, thấy các ác tướng như vậy tức bị Tỳ Na Dạ Ca làm chướng nạn.

Hành giả phải dùng Quân Trà Lợi Phẫn Nộ Minh Vương và ấn khế trì ma để hộ than, thì các toại ma chướng như trên thảy đều tiêu trừ không có não loạn. Hành giả Chân Ngôn trở về sau không bị Tỳ Na Dạ Ca rình tìm.

Lại nữa Tô Bà Hô Đồng Tử, người trì tụng muốn cứu người bị chướng nạn khiến được giải thốt cần tìm nơi có Thần Miếu, dưới gốc cây, ngã tư đường, chỗ trống vắng, trong rừng, các chỗ như vậy chọn lấy một như pháp trừ địa tức lấy ngưu phẩn phân bò hồ hương đồ xoa, tô đất, khi khô rồi lấy nước hương rải lên sau dùng đất năm màu y theo Mạn Đà La mà bố trí rộng ba khuỷu, lập bốn cửa, ở giữa hai khuỷu vuông đào một lỗ, trong lỗ để cỏ tranh, ngồi huyệt hai khuỷu để tòa an trí Chân Ngôn chủ.

Nơi các hướng hoạ các thần, sau lấy bốn bình mới, không dùng màu đen, đổ đầy nước thơm, lại dùng ngũ bảo năm loại báu, hoa sen đỏ và các lại hoa hương thơm khác cúng dường, trái cây, nhánh đều bỏ vào trong bình, dùng dây ngũ sắc cột cổ bình để bốn hướng.

Sau đó thỉnh vị chủ Minh Vương, dùng các món đầy đủ cúng dường, sau dùng rượu thịt củ cải, đồ ăn ba đa la cúng dường tám phương Đại Thần cùng tất cả các loại Tỳ Na Dạ Ca làm chướng nạn.

khiến vào trong huyệt ngồi xây mặt về hướng Đông tụng Chân Ngôn một trăm lẻ tám biến xong, sau đó lấy bốn bình nước dùng A Mật Rị Ra chỉ dương gia xích sắc Minh Vương và kết Lợi La Minh Vương, Nại Ra Nhĩ Lương Nõa Minh Vương Chân Ngôn trì tụng quá một trăm lẻ tám biến xong dùng hốn đảnh, trước sau bốn bình lần lượt tác pháp xong, người bị chướng kia tức được giải thốt.

Đây là Mạn Đà La dùng trừ tất cả Tỳ Na Dạ Ca, cũng hay lợi ích các việc quan, nữ nhân khó sanh, buôn bán khó khăn, trồng tỉa thu hoạch ít, vọng lượng nhập thân nóng lạnh, quỷ mị quấy phá, phong tà quỷ, đêm ngủ có ác mộng, bệnh thần kinh cùng mười loại bệnh, tác Mạn Đà La này, lấy nước hốn đảnh y trên được lợi ích, ở cầu đầy đủ, tật bệnh mau tiêu trừ, lại hay trừ diệt vô lượng tội chướng.

***