Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đồng Tử Vô Ngôn

PHẬT THUYẾT

KINH ĐỒNG TỬ VÔ NGÔN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN BA
 

Lúc bấy giờ, trong hội, có một vị Bồ Tát tên là Liên Hoa Tịnh hỏi Bồ Tát Vô Ngôn rằng: Như những điều Tộc Tính Tử dấy ý bạch hỏi Đức Như Lai thì chắc Ngài đã thấy sự giải đáp và hành động vi diệu rồi?

Như pháp nhiễm thọ được thật đáng vui lòng ư?

Ngài Vô Ngôn đáp rằng: Thưa Ngài Tộc Tính Tử! Tôi từ trước đến giờ, chưa từng hỏi pháp, cũng không thọ nhận cái gì thì phải do cái duyên nào mà đạt đến pháp nhiễm để có thể nhiễm vào lòng sao?

Ngài Liên Hoa Tịnh nói: Thưa Ngài Tộc Tính Tử! Ngài chưa từng nhân ở với Đức Như Lai thính thọ pháp ư?

Ngài Vô Ngôn đáp rằng: Chẳng phải vậy!

Lại hỏi: Vì sao?

Đáp rằng: Chẳng phải pháp khí ấy!

Lại hỏi: Ngài đối với pháp giảng chẳng phải là pháp khí ư?

Đáp rằng: Đúng vậy!

Lại hỏi: Ngài là khí gì?

Đáp rằng: Tôi đối với các loại pháp mà chẳng phải là khí, không lại khác lạ.

Lại hỏi: Thưa Tộc Tính Tử! Nếu chẳng phải là khí thì Ngài nhân đâu sẽ chứng được đạo Vô Thượng Chánh Chân?

Đáp rằng: Đạo chẳng phải là pháp khí!

Lại hỏi: Xét kỹ đạo ấy thì chẳng phải là pháp khí của Phật ư?

Đáp rằng: Giả sử đạo ấy lìa khỏi Phật Pháp thì Phật Pháp chẳng phải là khí. Lại nữa, đạo ấy thì chẳng lìa khỏi Phật Pháp. Lại, kể Phật Pháp thì chính là đạo. Lại, đạo ấy thì tức là Phật Pháp vậy.

Thưa Tộc Tính Tử! Tôi chẳng muốn khiến cho đạo pháp của Chư Phật lìa khỏi trần lao, thường chẳng chí Đạo hết lòng đạo, huống là muốn Phật Pháp, lìa khỏi đạo ư?

Sở dĩ vì sao?

Vì có Phật Pháp thì chẳng lìa trần lao. Lại, trần lao ấy chẳng lìa khỏi đạo. Thấu hiểu dục trần thì gọi là đạo. Tôi vì vậy nên chẳng kể ngã sở, chẳng phân biệt Phật Đạo. Kẻ khác ý ấy, mỗi mỗi đều tính kể, phân biệt. Tôi chẳng phải ở chỗ khác mà cầu đạo.

Giả sử, có người ở chỗ khác cầu những cái khác này. Giả sử lại có người không có cầu khác, chẳng lấy làm phân biệt.

Lại hỏi: Lấy gì làm khác?

Đáp rằng: Cho là ngô ngã phân biệt, cùng đạo chẳng đồng. Đó gọi là khác.

Cho là bốn Đại khác ngã, nhân, thọ mạng mà tâm ý khác, dâm nộ si khác. Đó gọi là khác. Nếu có thể hiểu rõ ngô ngã tự nhiên, gốc ngọn thanh tịnh. Đạo là tự nhiên, gốc ngọn thanh tịnh thì mới gọi là không khác.

Ngã, nhân, thọ, mạng, dâm, nộ, si tự nhiên thanh tịnh, đạo cũng tự nhiên, rốt ráo thanh tịnh thì mới gọi là không khác. Giả sử khác thì chẳng thể cầu khác mà sẽ ở trong tấm thân tứ đại này.

Ở trong ngô ngã cầu tất cả pháp, cầu như vậy thì cầu không sở đắc. Giả sử trong vô sở đắc mà tạo sở trước thì không sở trước, đã không sở trước thì không xứ sở.

Tất cả các pháp đều không chỗ trụ, không có bản tế. Giả sử không bản tế thì tức là chân bản tế. Vì chân bản tế không đoạn tuyệt với tế, chẳng kể đương tế, không có hạn tế, không vô lượng tế.

Bản tế của tất cả các pháp như vậy. Nếu vào tế này thì chẳng có niệm cũng chẳng không niệm, chẳng tại sinh tử, cũng chẳng diệt độ, rốt ráo diệt độ, liễu ngộ tất cả pháp. Nếu dùng pháp này mà diệt độ thì đạt được tịch nhiên, những người chẳng diệt độ thì khiến cho được diệt độ.

Như Đức Thế Tôn nói rằng, chẳng thể điều phục mình thì chẳng thoát tịch diệt mà chẳng theo lời dạy thì chẳng được diệt độ, muốn khai hóa người khiến cho được diệt độ thì chưa có vậy.

Tự tịch nhiên ấy giải thoát theo luật, được độ vô vi có thể độ kẻ chưa độ. Việc này đúng như lời nói thì chính là hạnh Bồ Tát. Giả sử muốn được đến pháp diệt độ liền phải tuân tu hạnh Bồ Tát thì có thể hiểu rõ tất cả các hạnh, đạt đến tướng pháp giới.

Người hành động như vậy liền có thể đều thấy mọi gốc đức, mắt chẳng lại nhìn thấy những hành động mang dấu vết của các ma và quan thuộc của chúng. Người đó phải tuân tu tập hợp Phật Pháp này, chẳng mất tam muội.

Như vậy, hành giả khai hóa chúng sinh, tuyên dương thông suốt tất cả các cõi, độ đến vô ngã. Như vậy, hành giả thọ tất cả pháp, đều khiến cho trần lao tự nhiên trừ hết.

Như vậy hành giả tuy hành động ở đời mà chẳng nhiễm trước phương tục. Như vậy hành giả nắm giữ năm ấm, chẳng trụ ở thức. Như vậy hành giả thọ những bốn đại, đứng ở pháp giới mà chẳng dao động.

Như vậy hành giả nhiếp lấy các nhập, đạt đến cửa giải thoát. Như vậy hành giả đã hiện các cõi mà độ vô cực, độc bộ đạo lớn, vào đến ba cõi, thị hiện trần lao mà không cấu bẩn.

Như vậy hành giả thí độ vô cực, chẳng tưởng vô cực, cũng không chỗ trụ. Giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ… tuệ độ vô cực, chẳng tưởng trí tuệ, cũng không sở trụ.

Như vậy hành giả chẳng bỏ mọi hạnh, việc tu thẩm xét đế rốt ráo thanh tịnh. Như vậy hành giả tu hạnh Bồ Tát đã có thể tuân tập đạo, không chỉ ngần ấy.

Người hành Bồ Tát thì không có hai. Không có hai thì mới là hạnh Bồ Tát. Hành Đạo Bồ Tát không có ngô ngã cùng với ngã sở, chẳng kể có thân, cũng không sự thọ nhận thì mới là hạnh Bồ Tát.

Người tu đạo ấy không có kết trệ kết đọng lại, trừ các phước phế, mới là Bồ Tát. Người tu đạo ấy chẳng hoạn nạn nguy hại, thấu rõ phân biệt vô hội vô vi thì mới là Bồ Tát.

Lại hỏi: Sao gọi chánh hiệu là Bồ Tát ư?

Đáp rằng: Là người chẳng hiểu rõ đạo nghĩa. Nhân gọi rằng Bồ Tát là thuận theo lời dạy đạo dấy phát tịch nhiên, chẳng hủy lời Phật dạy, phụng trì lời pháp, tương hộ Thánh Chúng mà đối với tâm đạo thì chẳng chuyển động.

Lòng chẳng trụ ở Thanh Văn, Duyên Giác chẳng loạn tịnh tánh mà chẳng tuyên nói lời vô xưng, rốt ráo lời thề cốt yếu, độ người chưa độ, an những kẻ chẳng an, những người chẳng diệt độ khiến cho được diệt độ, thọ trì trần lao chẳng rơi vào vô dục.

Quán đến chỗ sinh của vô sinh mà xem xét đến trống không, không tương tế quần sinh. Quán đến vô tướng, chẳng tưởng trước đạo. Hành đến vô nguyện, tùy theo tục mà sinh, cầu đến Phật thân, chẳng bị sự tiêm nhiễm của mọi dục.

Quán đến hữu vi, thấu rõ kết cục, cũng không sự mất mát mà chẳng ngu đần, được tuệ thế gian, cầm binh trượng trí hàng phục giặc năm ấm, nạn sáu suy, khai hóa kiêu mạn, thí tự trang nghiêm, nghiêm tịnh Cõi Phật, giới trang nghiêm lòng, sở nguyện đầy đủ.

Mặc giáp nhẫn nhục giáo thọ dạy trao sân nhuế, tinh tấn kiên cường có thể thành tựu rồi giống như Kim cương, ở với rối loạn mà chí chấp trì thiền định, không sự chấp trước, trí tuệ sáng tỏ mà chẳng chán ghét sự dơ bẩn của cuộc sống, hành quyền phương tiện, tất cả sở tại.

Tìm về nguồn đạo cực cùng, tu theo từ tâm, an tường nhu hòa, phát khởi chúng sinh, hành theo đại bi, thấy ở chúng sinh, người chưa được độ thì vỗ về nuôi nấng khiến cho yên ổn tuân tu hành hỷ, thường vì kẻ không chỗ nương tựa khiến cho hộ trì các căn, hành theo họ, quán chẳng vĩnh viễn tịch diệt, tu theo quán vậy.

Tuân thừa việc thâm áo khó bì kịp, Thanh Văn, Duyên Giác đã chẳng thể đạt tới, nhớ tạng nghĩa xưa, chẳng nghĩ thế điển, nhiều chỗ tương thuận tất cả quần sinh, trang nghiêm thân ấy bằng dáng đẹp của tướng, trang nghiêm miệng ấy bằng lời nói hành động tương ứng, trang nghiêm tâm ấy bằng chẳng bỏ ý đạo.

Thần thông vui sướng có thể thị hiện khắp, tất cả chỗ trụ giữ lòng như đất, được sự kính ngưỡng của tất cả chúng sinh, rửa sạch tất cả cấu bẩn ví như lửa đốt cháy tất cả, gian nan suy nhập ví như lửa, tâm giống như gió, không có não nhiệt, bước đi không ngại, lòng như hư không.

Chưa từng sầu tưởng, mang tất cả các pháp, chứng được tổng trì, tất cả việc đã nghe biết, nghĩ chẳng quên, biện tài đầy đủ, có thể vui lòng chúng sinh vui vẻ giải thích mà được sự kiến lập của các Đức Phật, có thể tự tu tâm khiến cho thanh tịnh, thuận theo pháp giới.

Hiểu rõ tứ thực bốn món ăn, chẳng tưởng các ứng, uy nghi lễ tiết thanh tu thân mình, uy nghi lễ tiết trên đường qua thanh tịnh, vì tu nghiệp chính, bước đi tiến dừng đầy đủ thành tựu mà tu hạnh không.

Ưa thích nhàn cư khai hóa chúng sinh mà chẳng chán ghét những nơi tụ hội, ưa thích thiền tư mà chẳng lo ý ấy, chưa từng nghèo thiếu, đầy đủ của cải của tất cả các Hiền Thánh, tu ở đền thờ cúng, hàng phục lòng tệ ác, đi vào miền khoáng dã là tu tập kiên cường, tâm ấy cương nghị chẳng thể hủy hoại.

Tuân hành nhân từ, rốt ráo diệt độ, thân thuận quay trở lại mà chẳng rỗng hết, đến với đức xưa, chí cũ thường thuận theo, báo chỗ trước do ý niệm, hành động nghĩ tốt, vì chúng sinh nên đã học tinh cần, chọn lựa lấy điều cần yếu khuyến hóa vô trí, đã tu nghiệp lành không bị phiền não đốt.

Có thể phân biệt làm theo đại ai, đi khắp tất cả, dẫn đường đến ba thừa, chẳng mang lòng hồ nghi, ở tất cả pháp chúng đã chiêm nghiệm quan sát, đã hỏi thì có thể đáp không ai chẳng kính ngưỡng, biện tài vô ngại không ai chẳng nhận lời, bản nguyện đã lập minh thuyết hòa nhã.

Đã đến thì nơi đến không đâu chẳng vui mừng, nói năng tùy lúc, chưa từng mất dịp, công huân bố thí được sự kính ngưỡng của người như vầng trăng tròn đầy, chí tính nhu hòa, lời không thô ác, được đối tượng có thể nhẫn, các căn chẳng tiều tụy, khéo tu ý ấy.

Bình đẳng đưa người qua lại giống như cây cầu, độ thoát chúng sinh khỏi bốn dòng nước xiết ví như thuyền lớn, cũng như Đạo Sư dẫn đường đem tất cả những người đi lại, thường chủ động cứu giúp tất cả kẻ dị học, vì mọi quần lê dấy lập Phật Sự…

Nên gọi là Bồ Tát mà chẳng thoái chuyển mọi hạnh như vậy và những đức huân khác, chẳng thể nghĩ bàn đạo tuệ đầy đủ mới gọi là Bồ Tát.

Đến đây, Bồ Tát Liên Hoa Tịnh bạch Đức Phật rằng: Kính thưa Đức Thế Tôn! Nay con quan sát Bồ Tát Vô Ngôn, trí tuệ biện tài tuyên dương thông suốt Đạo Giáo như vậy thì chẳng bao lâu sẽ thành đạo vô thượng chánh chân, làm bậc Tối Chánh Giác, sẽ chuyển bánh xe pháp vô thượng rộng rãi.

Nếu lại có người được nghe lời nói pháp của Bồ Tát Vô Ngôn, tin yêu kính thuận mà chẳng chê bai thì chẳng bao lâu sẽ đạt đến đầy đủ pháp công đức này.

Đức Phật dạy rằng: Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông! Quả thật không có khác! Bồ Tát Vô Ngôn chứng được tuệ minh tam muội. Trong khoảnh khắc phát ý đã dùng một câu pháp, ở trong trăm ngàn kiếp, phân biệt giải nói mà nghĩa chẳng thể cùng tận.

Bồ Tát Liên Hoa Tịnh lại bạch Đức Phật rằng: Hay thay! Thưa Đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót con và chúng hội này, những người có gốc đức đời trước vân tập đến, đã vì Kinh Điển nên sẽ khiến cho trang nghiêm, nguyện xin Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác phu diễn giảng nói tuệ minh tam muội này.

Nếu có Bồ Tát được nghe lời dạy này thì đều sẽ chứng được tuệ minh tam muội. Giả sử có người thọ rồi phần nhiều đem tế độ tất cả quần sanh thì mau chóng Thành Đạo Vô Thượng Chánh Chân, làm bậc Tối Chánh Giác.

Đức Phật bảo Bồ Tát Liên Hoa Tịnh rằng: Hãy lắng nghe! Khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì ông giảng nói về tuệ minh tam muội!

Hay thay! Thưa Đức Thế Tôn! Con nguyện ưa thích muốn nghe! Bồ Tát Liên Hoa Tịnh thọ giáo mà lắng nghe.

Đức Phật dạy rằng: Này Tộc Tính Tử! Cái gọi là tuệ minh là cách gọi của ánh sáng Thánh.

Sở dĩ gọi là tuệ minh, ánh sáng Thánh là gì?

Là vì ánh sáng ấy tiêu trừ mọi ngăn che kết bẩn, tối tăm, thông qua các ngại, lìa khỏi bẩn đục, yếu mềm… nên gọi là tuệ minh tam muội. Giải pháp không hai, sự quan sát sáng suốt không có do dự.

Tuệ không có bạn bè, chẳng kính ngưỡng người, diệt mọi tỳ vết lỗi lầm. Chợt phát liền đối, phân biệt diệt độ, hiểu rõ một tuệ, giải thông suốt tuệ ba đời, quá khứ, đương lai và hiện tại.

Nghiêm tịnh ba trường, hiển sáng ba cõi, thể ba cửa giải thoát, thông ba đạt trí, trải rộng Tam Bảo, bày thông suốt Tam Thừa, tịnh được Tam Nhãn hủy ba gốc bẩn, sáng ba tụ cao lớn, quyết định chỗ chưa định.

Đây gọi là ba tụ cao lớn vậy. Nhận thức thông suốt vào ở trong tâm ý thức, phân biệt loại của ấm, việc của các nhập, biết rõ nhân duyên hòa hợp báo ứng, đoạn dứt chẳng điều định, trầm nghi, tà kiến, giải biết pháp giới.

Có thể nói bản vô, xét bản tế của như tối thượng, đệ nhất phương tiện chí Thánh, sáng hiểu tất cả văn tự âm hưởng. Chỗ ấy vào ở, nếu chuộng giảng nói thì lời nói không bị phá hủy, biện tài vô ngại, không thể kiềm chế.

Nếu phu diễn pháp không thể đè nén thì tri thức tất cả các căn mỗi khác, quyết đoạn dứt cái nguồn mềm yếu trung dung, hữu minh vô minh vào đến Tam Giáo, chấp trì sự ứng đáp vào đến tổng trì, ban tuyên quang huy qui thú Nhật hành tam muội.

Vô lượng tụng tam muội, phân biệt tuyên sướng Kim cương Đạo Tràng tam muội, Như Kim Cương tam muội, Giác vô sân tam muội, Ý dũng tam muội, Hàng trừ ma trường tam muội, Nhật quang Minh tam muội, Diệu Ma bất chiếu vô cảnh giới tam muội, Tuệ vô tề hạn nhập vô tưởng niệm tràng anh chí tam muội, thuần thục thân cận nhất thiết chư pháp chiếu minh hoa tam muội.

Phóng Vô Lượng Quang nhập âm tam muội. Liễu biệt nhất thiết âm thanh sở thú đức sự tam muội, Phổ năng thị hiện nhất thiết công huân thiện trụ tam muội, trí nhất thiết pháp sở lập chi xứ quang diệu tam muội.

Đẳng nhập nhất thiết chúng sinh chi tâm tận tôn Vương tam muội, Phân biệt chư pháp nhất thiết tất tận vô trụ tam muội, liễu chúng bình đẳng vô nhuế tam muội.

Nhất Thiết chư pháp cứu cánh vĩnh viễn vô vô động tam muội, bất trước chư pháp câu tích tam muội, khai hóa chư kiến siêu biểu tam muội… đối với tất cả tuệ không điều gì che ngại.

Đức Phật dạy rằng: Này Tộc Tính Tử! Như vậy những thứ tam muội v.v… có sáu vạn tam muội. Ta vào thuở xưa, thấy Đức Phật Định Quang mà được Đức Phật trao quyết, tức thời đạt được những tam muội này. Lại kể ở sáu vạn cửa tam muội này đều đến vào với tuệ minh tam muội.

Tuệ Minh tam muội tức là nguyên thủ của các tam muội, vào ở trong này mới đạt đến đại minh sáng lớn.

Đức Phật dạy: Này Tộc Tính Tử! Như Nhật Cung Điện Mặt Trời soi ở trong nước làm hiển hiện bốn việc chưa từng hưng lập.

Những gì là bốn?

Diệt trừ tất cả tối tăm ngăn ngại, phóng ánh sáng ấy đã soi xa rộng, thị hiện tất cả các sắc hình tượng. Cái sẽ được tạo tác ra đều do mặt trời đó dấy nghiệp an lập cả. Tuệ minh tam muội cũng lại như vậy. Nếu có Bồ Tát trụ ở định này thì hiện bày việc xưa chưa có, cũng hưng khởi bốn việc.

Những gì là bốn?

Diềt trừ tất cả trần lao cấu bẩn tối tăm, chiếu ánh sáng vô lượng trí tuệ xa rộng, xét thấy tâm hạnh, hình mạo, các sắc của tất cả chúng sinh, theo sở học hạnh ba thừa ấy gọi là chỉ thị kiến lập đạo nghiệp.

Đức Phật dạy: Này Tộc Tính Tử! Ví như viên ngọc Như Ý lớn tám góc, ánh sáng đẹp, hoàn thiện, thanh tịnh, huyền diệu, không có những tỳ vết, cấu cặn, không có dơ bẩn, đặt nó đầu tràng thì sáng đến bốn mươi do tuần.

Lòng mọi người dám có điều cầu xin thì đều khiến cho được nguyện ước, mỗi mỗi đều được sự chẳng mất lợi ấy. Viên ngọc lớn Như Ý không có sự yêu tiếc cái gì cả.

Nếu có Bồ Tát được đứng ở tuệ minh tam muội này thì Thánh trí siêu tuyệt, lồng lộng như vậy, thanh tịnh tươi sáng như viên ngọc Như Ý trừ các trần lao, kết bẩn, mọi cấu cặn, trụ ở định bát thanh tịnh vi diệu cấm giới tam muội.

Trí tuệ giải thoát độ tri kiến phẩm, thành đế tươi sạch, thiện quyền phương tiện, tổng trì biện tài, phân biệt nhẫn nhục, không đâu chẳng thông suốt, kia dùng thanh tịnh thì không gì có thể đương đầu được ánh sáng.

Lìa khỏi tỳ vết, vô cực đại ai dùng làm đại tràng, soi sáng tất cả vô lượng Cõi Phật, theo sở nguyện xưa của mỗi lòng chúng sinh đều được giải thích.

Bồ Tát như vậy, cứu tế chúng sinh trở ngại trong ba xứ, năm đường, đều đem đến với đại đạo, cũng không tưởng niệm.

Đức Phật dạy rằng: Này Tộc Tính Tử! Ví như hư không, hư không không bờ cõi có thể dung thọ hết tất cả cõi Phật, nắm giữ mọi nguồn nước, tất cả những hỏa kiếp. Khi lửa cháy, tất cả chúng sinh chẳng chỗ tiến, lui.

Cho họ chỗ về, Bồ Tát vì họ làm xứ sở. Khu vực hư không rộng xa tối sáng chẳng thể hạn lường, không gì ngăn ngại. tuệ minh tam muội cũng lại như vậy.

Nếu có Bồ Tát trụ ở định này thì vì các chúng sinh, tất cả các pháp, khai thị, dẫn đường xứ sở. Kẻ không chỗ về thì nhận sự trở về của họ, gieo trồng mọi gốc đức, quả báo nhân duyên, khai giải lòng mình, vì vô ương số tất cả chúng sinh dẫn đường, thị hiện đường đi, giáo hóa ban cho mắt sáng, mạnh mẽ với nhân duyên.

Loài quần manh chưa được giải thoát, vĩnh viễn ở trong tà kiến thì cho thị hiện xứ sở. Giả sử có người chẳng hưng khởi gốc đức, chẳng quay lại đạo khí khí cụ của đạo, chẳng ở tại vô bản thì mỗi mỗi đều khai hóa, vì họ thị hiện pháp khí rộng rãi, hiển phát ý đạo vô thượng chánh chân mà hiện bày xứ sở Thanh Văn, Duyên Giác.

Nghe ta nói pháp liền nhận, phụng hành thì được quả báo. Người hâm mộ thừa Thanh Văn, Duyên Giác thì phải vì họ tuyên dương thông suốt những yếu nghĩa của lục điển sáu Kinh Điển từng đã quên mất, khiến cho họ vào cửa pháp.

Nhờ đó nên các chúng Bồ Tát muốn cầu đạo thì phải vì họ ban tuyên Lục Độ vô cực, tứ đẳng ân, phương tiện khéo léo khuyến trợ chỉ đạo, mỗi mỗi đều vì họ suốt thông khiến cho lòng trở nên vui vẻ, làm cho họ chẳng thoái chuyển, chứng thành đạo vô thượng chánh chân. Đó là tất cả loài chúng sinh khai Thị Xứ sở.

Ở đó, sao gọi là tất cả pháp thị hiện xứ sở?

Giả sử miệng Bồ Tát tự phu diễn tám muôn bốn ngàn Kinh Điển pháp tạng. Nếu có lòng mọi người mang hồ nghi, do dự, chẳng quyết, đến trình bày hỏi han thì Bồ Tát đều thường giữ chí một lòng, nhất nhất vì người giải quyết sự ngưng kết ấy.

Ý nghĩa một câu mà hàng ức trăm ngàn, khó hạn lường kiếp số, đều phải phu diễn phân biệt. Tuệ ấy không lường, tối sáng mênh mông, không chỗ ngăn ngại mà chẳng thể hết, không có bờ cõi. Đó là tất cả pháp thị hiện xứ sở.

Đức Phật dạy rằng: Này Tộc Tính Tử! Ví như cây đuốc lớn, ánh sáng chiếu xa, các hình sắc bị che ngăn khuất lấp đều được hiện ra. Ánh sáng của ngọn đuốc mà lợi ích như thế này thì định ý tuệ minh cũng lại như vậy.

Nếu có Bồ Tát trụ ở định này thì có thể dùng một tâm tuệ minh hiển bày chương cú mà các Đức Phật, Bồ Tát, tất cả chúng sinh trong vô lượng chẳng thể tính kể những đất nước của Phật của mười phương, không ai mà chẳng nhìn thấy, cũng chẳng xa cách, chí chẳng di động.

Tâm tuệ minh quan sát vô biên!

Đức Phật dạy rằng: Này Tộc Tính Tử! Định tuệ minh ở với ý chỉ thì thấy nguồn các pháp, ở với bốn ý đoạn thì người chưa phát ý, làm hưng nguồn tuệ, với các thần túc là nguồn tịch thân ý, mà với các căn thì ở nguồn thánh đạt, cái gọi là lực thì gọi là trí tuệ lực, ở với pháp giác ý thì vào đến nguồn tuệ, cái gọi là đạo thì ở nguồn chánh kiến.

Quán tịch nhiên là quan sát đạm bạc. Hành chân thành là nguồn thiện diệt. Thánh đế ấy là nguồn thiện tịch tuệ. Niệm sở qui là nguồn như nghĩa thú. Đạo phân biệt là nguồn pháp nghĩa.

Đạt thần thông là nguồn lậu tận. Tu phạm hạnh là nguồn hưng khởi đại ai, bốn đẳng tâm. Tất cả nghĩ khắp là nguồn tư duy pháp. Các độ vô cực thì trí độ vô cực làm đầu nguồn.

Thiện quyền phương tiện là nguồn ứng lòng chúng sinh. Mười thứ lực thì biết hạn, không hạn, có xứ, không xứ… lấy đây làm nguồn. Vô sở úy là nguồn hiểu rõ Phật Đạo bình đẳng.

Bất cộng pháp mà đối với ba đời là nguồn không gì ngăn ngại. Cái nói là mắt thì gọi là mắt Phật trang nghiêm thân ấy. Tướng đảnh mi gian là nguồn không thể nhìn thấy.

Miệng trang nghiêm là nguồn ban tuyên Kinh Pháp không lấn lướt tổn hại. Tâm ấy trang nghiêm hành tam muội mà chẳng dời nguồn.

Này Tộc Tính Tử! Đó là tất cả các pháp đều do nguồn trí tuệ qui thú. Đó gọi là tam muội tuệ minh, đầu nguồn của tất cả các pháp.

Khi Đức Phật nói lời nói đó thì Bồ Tát Liên Hoa Tịnh chứng được tam muội tuệ minh. Lại có một vạn vị Bồ Tát cũng chứng tam muội ấy.

Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới sáu lần chấn động, ánh sáng lớn ấy soi chiếu khắp mười phương. Lúc bấy giờ, tất cả những chúng đến tụ hội, Chư Thiên, nhân dân mỗi mỗi đều mang theo hoa, tung lên trên Đức Phật để cúng dường.

Đến đây, các chúng Bồ Tát trong hội, người có chí Đại Thừa, đều bạch Đức Phật rằng: Chúng con trước nay chưa từng được nghe đến tên của tam muội này, huống gì là được rộng giải phân biệt nghĩa lý. Hôm nay đã được phước cúng dường Đức Thế Tôn, nguyện khiến cho chúng con đạt được tam muội đó, tiến hành dần dần.

Duyên vào điều thề đó mà đạt được định ý này, nhất định không được nghi ngờ. Chúng con thiện lợi là rất may mắn mới có thể tao ngộ nghe được tam muội đó.

Nếu có người được nghe tam muội đó mà vui mừng tin tưởng thì công đức khó hạn lượng, chưa từng trái mất tâm Bồ Tát, cũng sẽ chẳng bao lâu đạt đến tam muội này.

Đức Phật dạy rằng: Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông mà không có khác! Người không đức chẳng gieo trồng gốc thiện thì chẳng thể gặp gỡ được tam muội này huống gì là được nghe. Còn kẻ hoan hỷ tin theo thì chưa có vậy. Giả sử, ở tại bên thiện tri thức hoặc theo bậc minh sư thì mới có thể tin ưa cái định ý này vậy.

Khi Đức Phật nói lời đó sắp xong thì trong xương sống Đức Thế Tôn, một vị Bồ Tát xuất hiện với màu tử ma kim màu vàng tía và ba mươi hai tướng trang nghiêm thân cùng tám mươi vẻ đẹp mà tô điểm dáng hình.

Vừa ra khỏi xương sống, thân Bồ Tát ấy tức thời phóng ra ánh sáng lồng lộng sáng chói rộng rãi không cùng cực, che mờ hết tất cả mọi thứ ánh sáng, chỉ có ánh sáng của Đức Thế Tôn, một mình được hiển hiện.

Vị Bồ Tát đó cúi đầu dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng, rồi đứng ở trước, khải bạch Đức Phật rằng: Kính thưa Đức Thế Tôn! Đức Chấp Tuệ Diệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, kính hỏi thăm Ngài không lường! 

Tiến, dừng khang cường?

Bước đi nhẹ nhàng?

Thế lực yên ổn?

Ngài sai con tuyên truyền lời hỏi thăm đến đức Đại Thánh và cùng số Bồ Tát có đến sáu mươi ức ấy, đi đến hội này, nghe nói Kinh Điển, phụng hầu Đức Thế Tôn, cúi đầu hỏi han thính thọ.

Lại nữa, con còn muốn thấy đại hội Bồ Tát của mười phương Thế Giới, Bồ Tát Vô Ngôn với trí tuệ biện tài đã có thể tuyên nói thông suốt, khải thọ kẻ chưa nghe cái định tuệ minh tam muội đó.

Thưa đấng Thiên Trung Thiên! Xin Ngài vì các Bồ Tát đáp ứng nói pháp, khiến cho họ chứng được tam muội tuệ minh đó, thâu hoạch được ánh sáng Đại pháp vô cực trong số quay trở lại đi đến Cõi Phật này.

Đến đây, Ngài Xá Lợi Phất ở trước Đức Phật hỏi rằng: Kính thưa Đức Thế Tôn! Đức Chấp Tuệ Diệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác là vị Phật ở phương nào?

Nay chắc đang hiện ở đời giảng nói pháp ư?

Cách xa hay gần?

Đất nước loại gì?

Đồng thời xin nói đến Danh Hiệu của vị Chánh Sĩ này, và cả sáu mươi ức số Bồ Tát là ở chỗ nào?

Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Phương Đông, cách đây hằng hà sa số những đất nước Phật, có Thế Giới tên là Trụ Ư Kiên Cố Kim Cương Chi Căn.

Đức Như Lai Chấp Tuệ Diệu ở tại cõi đó hiện tại hôm nay Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất Thế Giới đó vì sao tên gọi là Trụ Ư Kiên Cố Kim Cương Chi Căn?

Dưới đất của nước ấy, từ đáy lên đến trên, kiên cố rất chắc chẳng thể phá hoại, đều chính là Kim Cương. Đó đều là sự thành đạt của bản nguyện Đức Phật ấy.

Sở dĩ vì sao?

Vì hạnh Kim Cương kiên cố của Đức Phật ấy độc bộ không khó khăn và các Bồ Tát tạo hạnh Kim Cương, dũng mãnh bền chắc không thể hủy hoại. Uy lực của thân mình lồng lộng đầy đủ mới được như thế vậy.

Giả sử Thế Giới được tạo thành bằng bùn đất thì sẽ bị phá hoại tan nát rơi vải tứ tung. Nếu có người sinh ra ở Thế Giới đó, thân như Kim cương, đều cũng kiên cố chẳng thể phá hoại.

Vậy nên cõi đó tên là Trụ Ư Kiên Cố Kim Cương Chi Căn!

Lại này Xá Lợi Phất! Về điều ông hỏi, Bồ Tát này, nay tên gọi là gì?

Ông ấy hiệu là Kim Cương Lữ. Bồ Tát Kim Cương Lữ này trong một khoảnh khắc phát ý, thông qua núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, vượt qua những đất nước Phật nhiều như cát sông mà ở tại mỗi mỗi xương sống của những Đức Phật nhiều như cát sông xuất hiện.

Bồ Tát ấy đều được sự kiến lập công đức uy thần của các Đức Phật đó, cũng lại chính là tuệ của Lục Thông, lực của thần túc của chính mình. Vậy nên Bồ Tát hiệu là Kim Cương Lữ.

Lại này Xá Lợi Phất! Về điều ông lại hỏi, sáu mươi ức chúng những Bồ Tát là ở chỗ nào?

Ông phải đem vấn đề này mà hỏi vị Chánh Sĩ.

Ông ấy sẽ vì ông mà giải bày!

Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Kim Cương Lữ rằng: Thưa Tộc Tính Tử! Sáu mươi ức những chúng Bồ Tát là trụ ở đâu?

Ngài Kim Cương Lữ đáp rằng: Đức Phật khen Trưởng Lão là bậc trí tuệ tối tôn thì xin Hiền Giả Xá Lợi Phất hãy dùng mắt trí tuệ tìm kiếm gốc ngọn các Bồ Tát này là ở tại đâu?

Ngài Xá Lợi Phất dùng mắt Thánh Tuệ tìm giáp vòng cùng khắp nhưng chẳng biết sở tại của các Bồ Tát.

Bồ Tát Kim Cương Lữ đáp rằng: Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Ngài có bạn đồng học chí giải giải thoát ngang bằng, hãy khiến cho họ tìm sở tại!

Tức thời, Ngài Xá Lợi Phất gọi A Na Luật nhờ tìm. A Na Luật dùng thiên nhãn, mắt thanh tịnh siêu việt Trời người, quan sát tìm kiếm khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như quan sát trái cây và ngọc báu trong lòng bàn tay. Tìm kiếm các vị Bồ Tát mà vĩnh viễn chẳng thể biết, cũng lại chẳng thấy chỗ trú xứ của họ.

Hiền Giả A Na Luật báo cho Ngài Xá Lợi Phất rằng: Tôi kiếm tìm khắp nhưng mãi chẳng thể biết các vị Bồ Tát này là ở chỗ nào!

Ngài Bồ Tát Kim Cương Lữ nói với Ngài Xá Lợi Phất rằng: Thưa các Hiền Giả! Các Ngài chỉ có nhục nhãn, chẳng thể lại nói là có thiên nhãn!

Sao gọi tư duy chung với tam muội thiền, quan sát khắp các nước mà chẳng nhìn thấy các nước, mà chẳng nhìn thấy các chúng Bồ Tát là ở chỗ nào?

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Thưa Ngài Tộc Tính Tử! Thiên nhãn của Ngài loại gì mà Ngài cho là thiên nhãn của bọn chúng tôi chưa thấy vậy?

Ngài Kim Cương Lữ đáp rằng: Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Thiên Nhãn của tôi chưa từng thấy sắc. Ngài Xá Lợi Phất và chúng đệ tử, các đại Thanh Văn từ xưa đến nay chẳng thể thấy tôi.

Đức của thiên nhãn là những loại gì?

Cũng không thể sẽ sáng lồng lộng!

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Thưa Tộc Tính Tử!

Ngài nói về hình tượng sở kiến là những loại gì?

Mà Ngài nói chúng tôi từ xưa đến nay chưa nhìn thấy?

Ngài Kim Cương Lữ nói rằng: Trưởng Lão từng thấy Trụ Ư Kiên Cố Kim Cương Thế Giới và đức Chấp Tuệ Diệu Như Lai Chí Chân.

Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng: Ngày hôm nay được nghe tên của Thế Giới đó! Nhân gì thì được thấy?

Ngài Kim Cương Lữ nói rằng: Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Những loại như vậy, chẳng thể xưng kể các đất nước Phật và chúng Bồ Tát, nhân dân, chúng sinh… mỗi mỗi đều khác đường sinh ra, chẳng đồng. Bồ Tát Đại Sĩ dùng thiên nhãn nhìn thấy họ thì không có bỏ sót mà chẳng cùng khắp.

Tất cả Duyên Giác tuy có thiên nhãn mà chẳng thể nhìn thấy, huống gì là Thanh Văn mà có thể kịp thấy ư?

Khi nói lời nói đó, có sáu vạn người từng cầu Thanh Văn, Duyên Nhất Giác thừa vui vẻ cả mừng, liền phát ý đạo vô thượng chánh chân, đồng thời lên tiếng mà khen ngợi rằng: Làm cho thân chúng tôi được Phật pháp nhãn, chẳng dùng thiên nhãn của Thanh Văn và Duyên Nhất Giác còn che trùm ngăn ngại. Pháp nhãn của Phật không có hạn bằng, cũng không gì ngăn ngại.

Đến đây, Bồ Tát Kim Cương Lữ liền như hình tượng vào tam muội chánh thọ, kiến lập cảm ứng mà theo thánh chỉ Đức Phật thị hiện thần túc.

Bồ Tát Kim Cương Lữ, biến hóa uy đức, lực gốc phước thiện đời trước lồng lộng chẳng thể xưng hạn, khiến cho khắp tất cả những người đến hội đều chính mắt thấy sáu mươi ức những chúng Bồ Tát ở tại thân Đức Phật.

Đều ngồi kiết già trên hoa sen, tréo tay nghe Kinh, chẳng gần thân Phật, cũng lại chẳng xa, đều chính là sự cảm ứng của ân đức rộng lớn vô cực của Đức Như Lai vậy.

Lại, thân của Đức Như Lai chẳng tăng, chẳng giảm, không gì ngăn ngại, đều hiện như cũ trước đó, chẳng tổn hại gì. Tất cả chúng hội vừa sợ vừa mừng, hớn hở được việc chưa từng có, một lòng, vòng tay làm lễ Đức Phật rồi đứng.

Từng người, từng người đều khen rằng: Khó bì kịp! Khó bì kịp! Các Đức Phật Thế Tôn, thân hình rộng lớn, uy Thánh không lường! Thần biến công đức chẳng thể xưng hạn mới có thể dung thọ được sáu mươi ức Bồ Tát ngồi nghe Kinh ở trong thân Phật mà thân thể Đức Thánh như cũ chẳng tăng chẳng giảm.

Bồ Tát Kim Cương Lữ quan sát khắp chúng hội mà cất tiếng bảo rằng: Do đó cho nên các ông đều phải biết rằng, thân của Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác tức là pháp thân rộng lớn vô cực, không có tướng tốt mà chẳng vuông tròn, thân không bờ cõi, chẳng thể đo lường.

Khoảnh khắc phát ý của Đức Như Lai Chí Chân là muốn cho mọi dòng nước, biển lớn, sông ngòi, dòng chảy, đất nước, châu vực, rừng cây, thảo mộc, núi non, đất đai… sở hữu của ba ngàn đại thiên Thế Giới đều vào thân Phật chẳng tăng chẳng giảm, đều hiện ra như cũ.

Lại nữa, thưa các Hiền Giả! Hàng ngàn vạn số chúng Bồ Tát của những vô ương số ức trăm ngàn Cõi Phật, từ xa nhìn thấy tướng ánh sáng vi diệu của Đức Thế Tôn thanh tịnh không có trần cấu.

Họ đều phát khởi đi đến muốn thấy đức Thánh Tôn, hỏi han thính thọ Kinh Điển. Họ đều vì thiên hạ mà khuyên Chư Thiên, Nhân Dân, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, khiến cho được ủng hộ, khiến cho được tự qui nên đi đến nghe Kinh.

Giả sử người chẳng đến thì chẳng thấy thần thông biến hóa, chẳng thể phát tâm. Đức Phật muốn khai hóa độ chúng sinh nên Đức Như Lai lấy các vị Bồ Tát đặt vào bên trong thân mà thính thọ pháp chẳng thấy ngăn ngại, không gì nghi nan.

Hoặc có Bồ Tát trụ ở trong đất, vào giao lô báu mà tự xét thấy ngồi trên hoa sen…

***