Kinh Đại thừa

Bộ Niết Bàn

PHẬT THUYẾT KINH ĐỨC PHẬT

NÓI VỀ HƯƠNG GIỚI ĐỨC

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Đàm Vô Lan, Đời Đông Tấn
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật dạo chơi ở Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tại nước Xá Vệ.

Khi ấy, Hiền Giả A Nan Ānanda một mình ở nơi yên tĩnh, suy nghĩ: 

Đời có ba loại mùi thơm: 

Một là mùi thơm của rễ cây.

Hai là mùi thơm của cành cây.

Ba là mùi thơm của hoa. 

Ba loại mùi thơm này chỉ là mùi thơm đi theo chiều gió, chẳng thể đi ngược với chiều gió.

Há có mùi thơm nào xưa nay nhã hương vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió chăng?

Hiền Giả A Nan ở một mình, suy nghĩ chỗ quy hướng của nghĩa lý, nhưng chẳng biết được nơi quy hướng.

Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ của Đức Phật, cúi đầu dưới bàn chân của Đức Phật, quỳ thẳng lưng, cài chéo bàn tay, rồi bạch Phật rằng:

Con ở một mình suy nghĩ đời có ba loại mùi thơm: 

Một là mùi thơm của rễ cây.

Hai là mùi thơm của cành cây.

Ba là mùi thơm của hoa. 

Ba loại mùi thơm này chỉ có thể đi theo chiều gió, chẳng thể đi ngược với chiều gió.

Há có mùi thơm nào xưa nay nhã hương vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió chăng?

Đức Phật bảo A Nan: Lành thay! Lành thay! Thật đúng như ông đã hỏi. Có mùi thơm chân chính vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió.

A Nan bạch Phật: Nguyện xin nghe về mùi thơm ấy.

Đức Phật nói: Nếu ở cõi nước, quận, huyện, ấp, làng, xóm có kẻ trai lành, người nữ thiện tu hành mười điều thiện: Thân chẳng sát sinh, trộm cắp, tà dâm. 

Miệng chẳng nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt.

Ý chẳng ganh ghét, giận dữ, ngu si.

Hiếu thuận với cha mẹ, phụng sự ba Tôn ba báu Phật Pháp Tăng, nhân từ, đạo đức, uy nghi, lễ nghĩa quy củ lễ tiết. Phương Đông có vô số Sa Môn, Phạm Chí ca tụng đức ấy.

Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương Trên, phương Dưới có Sa Môn, Phạm Chí đều ca ngợi đức ấy: Tại nước, quận, huyện, ấp, làng, xóm tên là… có kẻ trai lành, người nữ thiện phụng hành mười điều thiện, tôn kính phụng sự Tam Bảo. 

Hiếu thuận, nhân từ, đạo đức, ân nghĩa, chẳng mất lễ nghi quy củ. Mùi thơm này gọi là vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió, vòng khắp mọi nơi, chiếu soi mười phương, truyền bá Đức Guna, tất cả đều mong nhờ nương cậy.

Thời Đức Phật tụng rằng:

Tuy có hoa thơm đẹp

Chẳng ngược gió, xông ướp.

Chẳng ngừng, tên Chiên Đàn Can da na.

Tuôn mưa mọi mùi thơm

Chí tính hay hòa nhã

Tỏa mùi thơm ngược gió.

Chính Sĩ bậc Đại Sĩ cầu chính đạo tên Trượng Phu Puruṣa.

Xông ướp khắp mười phương Mộc Mật cây củ có quả ngọt như mật với Chiên Đàn.

Sen xanh tuôn mưa thơm

Tất cả mùi thơm này

Giới hương mùi thơm của

Giới là tối thượng

Nhóm này, người trong sạch.

Thực hành, không phóng dật

Chẳng biết lối của Ma Māra

Chẳng thấy nơi hướng về quy thú

Đường này đến an định

Đạo này không gì hơn

Chặt đứt nguồn dơ bẩn

Giáng phục, dứt lưới ma

Dùng nhà Phật đạo trên

Nhảy lên tuệ không cùng

Dùng đây tuyên nghĩa Kinh.

Trừ bỏ mọi điều xấu.

Đức Phật bảo A Nan: Chỗ mà mùi thơm này đã lan tỏa thời chẳng ngại núi Tu Di, xuyên qua Trời Đất, chẳng ngại bốn chủng: đất, nước, lửa, gió.

Thông đạt tám cực vùng đất rất xa ở tám phương. Phương Trên phương Dưới cũng thế. Không có giới hạn cùng tận… đều ca ngợi đức ấy. Một đời chẳng sát sinh thì đời đời trường thọ, mạng ấy không có tai nạn đột ngột.

Người chẳng trộm cắp thì đời đời giàu có, lại chẳng sằng bậy đánh mất tài bảo, thường để tâm bố thí, làm gốc rễ của đạo.

Người chẳng đam mê bóng sắc bất chính thì người khác chẳng xâm phạm đến vợ của mình, nơi đi đến là hóa sinh trong hoa sen.

Người chẳng nói dối thì miệng tỏa ra hơi thơm, lời nói ra luôn luôn được tin tưởng. Người chẳng nói hai lưỡi nói lờ chia rẽ đâm thọt thì nhà thường hòa hợp, không có biệt ly. Người chẳng ác khẩu nói lời xấu ác thì cái lưỡi của người ấy thường nói lời lẽ tốt đẹp, biện luận thông suốt.

Người chẳng nói thiêu dệt nói lời tạp uế không có nghĩa thì người nghe được lời nói ấy không có ai chẳng đến xin ý kiến, nhận lấy truyền bá, dùng làm điều quý báu.

Người chẳng ganh ghét đố kỵ thì đời đời sinh ra ở đâu đều được mọi người kính trọng. Người chẳng giận dữ thì đời đời đoan chính, người nhìn thấy vui vẻ, trừ kẻ ngu si.

Sinh ra trí tuệ tốt đẹp, chẳng cần thỉnh hỏi ai, buông bỏ tà kiến, thường trụ chánh đạo, theo hạnh Caryā mà chỗ đạt được đều tự nhiên sinh. Cho nên vứt bỏ sự không chính đáng tà, thuận theo sự màu nhiệm chân thật ấy.

Đức Phật nói như vậy thời các Tỳ Kheo nghe xong, đều vui vẻ làm lễ rồi lui ra.

***