Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công đức

PHẬT THUYẾT KINH

DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG THẤT

PHẬT BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nghĩa Tịnh, Đời Đường
 

PHẦN BỐN
 

Bấy giờ, trong chúng hội co một vị Đại Bồ Tát tên là Cứu Thoát, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn!

Vào đời sau, khi thời tượng pháp xuất hiện, có chúng sinh nào bị các bệnh tật bức bách, thân hình gầy yếu, không thể ăn uống được, cổ và môi đều khô rát, mắt nhìn thì chỉ thấy tối tăm, tướng chết xuất hiện, cha mẹ, quyến thuộc, bạn bè vây quanh khóc lóc, thân tuy đang nằm trên giường, nhưng lại thấy sứ giả của Diêm Ma Pháp Vương dẫn thần thức của họ đến chỗ vua.

Song, tất cả chúng sinh đều có vị thần câu sinh, ghi chép hết thảy tùy theo nghiệp thiện hay ác mà người ấy đã tạo ra, rồi đưa cho vị vua kia. Vua liền nương theo phép tắc để tra hỏi sự tạo tác của họ, tùy theo tội hay phước mà phán xử.

Khi ấy, thân quyến, bạn bè của người bệnh nếu có thể vì người ấy mà quy y Chư Phật, dùng các vật dụng trang nghiêm theo như pháp để cung dường, trải qua bảy ngày, hai mươi bảy ngày cho đến bảy mươi bảy ngày.

Thần thức của người ấy như được tỉnh dậy từ giấc mộng, tinh thần hồi phục như cũ, nên nhớ và biết hết tất cả quả báo của nghiệp thiện và bất thiện, do tự mình chứng kiến nghiệp báo là có thật, nên đến nỗi gặp nguy hiểm tới tánh mạng họ cũng không làm ác.

Cho nên, thiện nam, thiện nữ nào có lòng tin thanh tịnh đều nên trì niệm danh hiệu của bảy Đức Phật, tùy theo khả năng của mình mà cung kính cúng dường.

Khi ấy, Tôn Giả A Nan hỏi Bồ Tát Cứu Thoát: Thưa thiện nam! Làm thế nào để cung kính cúng dường bảy Đức Như Lai ấy?

Bồ Tát Cứu Thoát đáp: Thưa Đại Đức! Có người bệnh nào muốn thoát khỏi bệnh tật và tai nạn, nên vì họ mà giữ gìn tám giới quan trai trong bảy ngày bảy đêm, dùng thực phẩm và những vật dụng khác, tùy theo khả năng của mình mà cúng dường Phật và chúng Tăng, suốt ngày đêm cung kính lễ bái bảy Đức Phật, đọc tụng Kinh này bốn mươi chín biến, thắp bốn mươi chín ngọn đèn, tạo bảy hình tượng của bảy Đức Như Lai ấy, trước mỗi hình tượng tôn trí bảy ngọn đèn.

Bảy ngọn đèn ấy lớn bằng bánh xe, thap sáng suốt bốn mươi chín đêm không tắt, làm bốn mươi chín các phướn bằng tơ đủ màu sắc và một cái phướn dài bốn mươi chín thước, phóng sinh bốn mươi loài. Như vậy, người bệnh liền được xa lìa tai nạn nguy hiểm không bị các Quỷ ác và các thứ ngang trái làm hại.

Thưa Đại Đức A Nan! Đó là cách thức để cúng dường Chư Như Lai. Nếu trong bảy Đức Phật này mà chỉ cúng dường, trì niệm danh hiệu của một Đức Phật thì đều được công đức vô lượng như vậy, có mong cầu gì đều được mãn nguyện, huống gì là có thể cúng dường đầy đủ bảy Đức Phật.

Lại nữa, này Đại Đức A Nan! Nếu hàng Sát Đế Lợi hoặc vua đã thọ pháp quán đảnh… lúc các tai nạn phát khởi như dân chúng bị nạn dịch bệnh, nạn nước khác xâm chiếm, nạn trong nước làm phản, nạn các vì sao biến đổi kỳ lạ, nạn nhật thực, nguyệt thực, nạn mưa gió trái mùa, nạn hạn hán…

Khi ấy, các hàng Bà La Môn và vua quán đảnh ấy nên khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sinh, ân xá cho những người bị tù đày, khiến họ thoát khổ, theo cách thức như trước để cúng dường Chư Phật.

Nhờ căn lành này và diệu lực nơi bản nguyện của chư Như Lai, nên cõi nước ấy liền được an ổn, mưa gió điều hòa, lúa thóc được mùa, dân chúng trong nước đều không bệnh tật, an vui, không còn các thần Dạ Xoa hung ác quấy nhiễu, tất cả các cảnh tượng ác đều biến mất, hàng Sát Đế Lợi và vua quán đảnh… đều được tăng thêm tuổi thọ, sắc tướng và sức mạnh, không bệnh, tự tại.

Thưa Đại Đức A Nan! Nếu các vị Vua, Hoàng Hậu, Phi Tần, Công Chúa, Thái Tử, Vương Tử, Đại Thần, Tể Tướng, các thể nữ trong cung, trăm chức quan và dân thường… bị khổ sở vì bệnh tật và các tai nạn khác, thì cũng nên cung kính tạo hình tượng của bảy Đức Phật, đọc tụng Kinh này, thắp đèn, làm phướn, thả các sinh vật, chí thành cúng dường, đốt hương, rải hoa liền được lành hẳn các bệnh, thoát khỏi các tai nạn.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan hỏi Bồ Tát Cứu Thoát: Thưa thiện nam! Sao mạng sống đã chấm dứt mà có thể tăng thêm được?

Bồ Tát Cứu Thoát đáp: Thưa Đại Đức! Đại Đức há khong nghe Đức Như Lai giảng nói chín loại chết oan hay sao?

Do đó, Đức Thế Tôn mới nói Thần Chú như vị thuốc, tùy theo bệnh mà cứu chữa, nên thắp đèn, làm phướn, tu theo các nghiệp phước, nhờ tu phước nên được sống lâu.

Tôn Giả A Nan hỏi: Thưa thiện nam! Thế nào là chín loại chết oan?

Bồ Tát Cứu Thoát đáp: Một là, có chúng sinh tuy bị bệnh nhẹ nhưng không được khám bệnh và uống thuốc, giả sử được gặp thầy thuốc thì lại cho thuốc không đúng bệnh, thật ra không đáng chết mà lại chết oan.

Lại nữa, do tin theo tà ma ngoại đạo ở thế gian, các vị thầy quái gỡ nói sai lạc về họa, phước liền lo sợ, không thể làm chủ tâm mình, lại xem bói lành dữ, giết hại chúng sinh để cầu thần cứu giúp, cầu khẩn yêu quái, xin được ban phước…, muốn được sống lâu nhưng không bao giờ được, do mê lầm và kiến chấp điên đảo nên phải chết oan, bị đọa vào địa ngục không lúc nào ra khỏi.

Hai là, chết oan vì bị pháp luật nhà vua xử trảm.

Ba là do săn bắn, chơi bời, đam mê dâm dục, rượu thịt, buông lung không chừng mực, nên chết oan vì bị hàng phi nhân đoạt mất tinh khí.

Bốn là, chết oan vì bị lửa đốt.

Năm là, chết oan vì bị nước cuốn trôi.

Sáu là, chết oan vì bị các loài thú dữ ăn thịt.

Bảy là, chết oan vì bị rớt xuống sườn núi.

Tám là, chết oan vì thuốc độc, bị ếm trù, thư, hoặc bị các quỷ sai khiến thây chết… làm hại.

Chín là, do đói khát khốn cùng, lại không được ăn uống nên bị chết oan.

Đó là chín loại chết oan mà Đức Như Lai đã nói tóm lược, ngoài ra còn có vô số sự chết oan khác, khó có thể nói hết.

Lại nữa, thưa Tôn Giả A Nan! Vua Diêm Ma kia có ghi chép về sổ sách ở thế gian, nếu chúng sinh nào bất hiếu, tạo năm tội đại nghịch, chê bai ngôi Tam Bảo, hủy hoại phép tắc vua tôi, không giữ gìn giới cấm… thì Diêm Ma Pháp Vương sẽ xét tùy theo tội nặng hay nhẹ mà xử phạt.

Do đó, nay tôi khuyên các chúng sinh nên thắp đèn, làm phướn, phóng sinh, tu phước khiến vượt qua khổ đau, nguy hiểm, không bị các tai nạn.

Khi ấy, trong chúng hội có mười hai vị Đại Tướng Dạ Xoa, các vị hiện đang có mặt nơi pháp hội, đó là: Đại Tướng Cung Tỳ La, Đại Tướng Bạt Chiết La, Đại Tướng Mê Xí La, Đại Tướng Át Nễ La, Đại Tướng Mạt nễ La, Đại Tướng Sa Nễ La, Đại Tướng Nhân Đà La, Đại Tướng Ba Di La, Đại Tướng Bạc Hô La, Đại Tướng Chân Đạt La, Đại Tướng Chu Đỗ La, Đại Tướng Tỳ Yết La. Mười hai vị Đại Tướng Dạ Xoa này, mỗi vị đều có bảy ngàn Dạ Xoa làm quyến thuộc.

Cùng lúc, các vị đều bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hôm nay, chúng con nhờ oai thần của Phật được nghe danh hiệu của bảy Đức Như Lai, nên chúng con không còn sợ hãi về các cõi ác nữa.

Chúng con cùng nhau dốc lòng chí tâm cho đến trọn đời quy y Phật, Pháp, Tăng, phát nguyện sẽ gánh vác hết thay chúng sinh, tạo lợi ích an lạc cho họ, bất cứ ở nơi nào, hoặc thành ấp, xóm làng hay trong rừng hoang vắng, nếu có người nào truyền bá, đọc tụng Kinh này.

Hoặc trì niệm danh hiệu bảy Đức Phật, cung kính cúng dường thì chúng con cùng quyến thuộc sẽ ủng hộ người ấy, khiến họ thoát khỏi các tai nạn, có mong cầu điều gì đều được mãn nguyện, hoặc có bệnh tật mà cầu được lành thì cũng nên đọc tụng Kinh này, dùng tơ năm màu kết thành tên chúng con, khi được như ý rồi mới tháo ra.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi các Đại Tướng Dạ Xoa: Lành thay! Lành thay! Này các Đại Tướng Dạ Xoa, các ông nghĩ đến việc báo đáp ân đức của bảy Đức Như Lai thì nên luôn tạo lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh như vậy.

Khi ấy, trong chúng hội có nhiều Chư Thiên ít trí tuệ, suy nghĩ như vậy: Làm thế nào mà chỉ tạm nghe danh hiệu của chư Như Lai trong hiện tại cách đây bằng số cõi nước của Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, liền được vô biên công đức thù thắng như thế?

Bấy giờ, Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni biết rõ những suy nghĩ của Chư Thiên, liền nhập vào định Cảnh triệu nhất thiết Như Lai thâm diệu. Vừa nhập định xong, tất cả tam thiên đại thiên Thế Giới đều hiện đủ sáu cách chấn động, rưới xuống hoa đẹp Cõi Trời và hương bột Cõi Trời.

Bảy Đức Như Lai kia thấy tướng này rồi, mỗi vị đều từ cõi nước của mình đi đến Thế Giới Ta bà để cùng thưa hỏi với Đức Như Lai Thích Ca.

Khi ấy, nhờ năng lực nơi bản nguyện từ đời trước của Chư Phật, nên mỗi Đức Thế Tôn đều tự mình an tọa trên Tòa Sư Tử trang hoàng bằng báu Cõi Trời, các chúng Bồ Tát, tám bộ chúng như Trời, Rồng…, Người và Phi Nhân… Quốc Vương, Vương Tử, các phi tần, công chúa trong cung và các Đại Thần, Bà La Môn, trưởng giả, Cư Sĩ… đều vây quanh để nghe thuyết pháp.

Lúc này, Chư Thiên thấy chư Như Lai đều đã vân tập nên các vị ấy rất ngạc nhiên, tiêu trừ hết nghi ngờ, liền khen ngợi là điều chưa từng có, cùng nhau khen: Lành thay! Lành thay! Đức Như Lai Thích Ca đã tạo lợi ích cho chúng con, khiến chúng con tiêu trừ hết nghi ngờ và chư Như Lai đều đến nơi này.

Bấy giờ, trong đại chúng mỗi người đều tùy theo khả năng của mình, dùng hương hoa tốt đẹp, các chuỗi anh lạc và âm nhạc Cõi Trời để cúng dường chư Như Lai, rồi nhiễu quanh theo hướng bên phải bảy vòng, chắp tay kính lễ, cùng khen ngợi: Thật là hiếm có!

Cảnh giới của chư Như Lai thật sâu xa, không thể nghĩ bàn, do diệu lực nơi thệ nguyện từ đời trước và phương tiện thiện xảo nên đều hiện bày tướng đặc biệt, kỳ lạ như vậy.

Trong đại chúng, mỗi người đều phát nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đạt được định thù thắng giống như chư Như Lai.

Khi ấy, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, nhiễu quanh Chư Phật bảy vòng, đảnh lễ nơi chân Phật, thưa: Bạch chư Như Lai! Lành thay! Lành thay! Năng lực thiền định của chư Như Lai là không thể nghĩ bàn, nhờ vào diệu lực nơi bản nguyện và phương tiện thiện xao để giáo hóa chúng sinh.

Cúi xin chư Như Lai giảng nói Thần Chú có năng lực lớn, khiến cho chúng sinh phước mỏng ở đời sau, hoặc bị bệnh khổ bức bách, những tai nạn về mặt trời, mặt trăng và các vì sao, dịch bệnh, oán thù, đi vào đường hiểm trở, gặp những sự sợ hãi… làm nơi nương tựa, khiến họ được an ổn.

Những chúng sinh ấy đối với Thần Chú này hoặc tự mình biên chép hay bảo người khác biên chép, hoặc thọ trì đọc tụng, giảng nói rộng rãi cho người khác thì thường được Chư Phật hộ niệm và sẽ hiện thân đến khiến họ được mãn nguyện, không bị đọa vào cõi ác, cũng chẳng bị chết oan.

Các Đức Như Lai khen ngợi Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi: Lành thay! Lành thay! Đây chính là diệu lực từ oai thần của chư Như Lai, nên khiến ông thỉnh cầu chư Như Lai giảng nói Thần Chú, vì thương xót chúng sinh, làm cho họ không còn các nạn khổ.

Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, chư Như Lai sẽ giảng rõ.

Này Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi! Có Đại Thần Chú tên là Như Lai định lực Lưu Ly Quang, thiện nam, thiện nữ nào biên chép, đọc tụng, cung kính cúng dường, khởi tâm từ bi lớn đối với chúng sinh thì có nguyện cầu điều gì đều được mãn nguyện, Chư Phật sẽ hiện thân đến để hộ niệm, nên người ấy không còn các chướng ngại, phiền não, sẽ được sinh về cõi nước của Chư Phật.

Lúc này, bảy Đức Như Lai đều dùng một âm thanh diễn nói Thần Chú:

Đát điệt tha, cụ mê cụ mê khánh ni mê nị tứ, mạt để mạt để, tiệp hài đát tha yết đa tam ma địa át đề sắt sỉ đế, át đế mạt đế ba lệ, ba bạt thâu đát nễ, tát bà ba bạt na thế dã, bột thê bột đồ, xướng đáp me ổ mê củ mê, Phật đạc khí đát la, bát lý thâu đát nễ cù mê ni cù mê, mê lỗ mê lỗ, mê lô thi khiết lệ tát bà ca la, mật lặc đổ, ni bà lại nễ, bột đề tô đề thê, Phật đà, đà át đề sắt sá nê na yết lạc xoa đổ mê tát bà đề bà, tam mê át bà Phật đà, Bồ Đề tát đỏa, thiêm mê thiêm mê, bát lạt khổ mê mạn, đổ mê, tát bà y để ổ ba đạt bà tát bà tỳ hà đại dã, tát bà tát đỏ A Nan giả bổ lan nê, bổ lan nê, bổ lan dã mê, tát bà a xá, bệ lưu ly dã, bát rị để bà tế, tát bà ba bạt, trước dương yết lệ ta ha.

Khi bảy Đức Phật diễn nói Thần Chú này, thì ánh sáng chiếu tỏa khắp nơi, đại địa chấn động, cùng lúc hiện ra đủ loại thần thông biến hóa. Tất cả đại chúng nơi pháp hội thấy điều này rồi, mỗi người đều tùy theo khả năng của mình, dùng hương hoa Cõi Trời, hương xoa, hương bột để dâng lên Chư Phật và cùng khen ngợi Lành thay! Rồi nhiễu quanh theo bên phai chỗ Chư Phật bảy vòng.

Chư Thế Tôn cùng khen ngợi: Tất cả đại chúng trời, người các ông nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào hoặc quốc vương, vương tử, phi tần, hoàng hậu, đại thần hoặc dân chúng, nếu đối với Thần Chú này mà thọ trì, đọc tụng, lắng nghe, giảng nói, dùng hương hoa quý để cúng dường, mặc áo mới sạch sẽ, ở chỗ thanh tịnh, thọ trì tám giới quan trai, thường khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sinh, cúng dường như vậy thì được vô lượng phước đức.

Những ai có cầu nguyện điều gì thì nên tạo lập hình tượng bảy Đức Phật ấy, tôn trí nơi tịch tĩnh, dùng hương hoa, treo phướn, lọng bằng lụa, thực phẩm hảo hạng và các loại âm nhạc để cúng dường, cũng nên cúng dường Bồ Tát và Chư Thiên, ở trước hình tượng Chư Phật.

Ngồi trang nghiêm tụng Thần Chú, thọ trì tám giới quan trai trong bảy ngày, tụng đủ một ngàn lẻ tám biến thì người ấy được chư Như Lai và các Bồ Tát đều hộ niệm, Bồ Tát Chấp Kim Cang, Đế Thích, Phạm Thiên và bốn vị Thiên Vương… cũng đến ủng hộ người ấy, nếu họ có tạo năm tội vô gián và tất cả các nghiệp chướng thì cũng đều được diệt trừ hết, không còn bệnh tật, tăng tuổi thọ.

Cũng chẳng bị chết oan và các dịch bệnh khác, tất cả các sự sợ hãi như nạn giặc cướp ở nước khác đến xâm lấn, giặc giã, chiến tranh, tranh chấp, oán thù, nạn đói, hạn hán… thảy đều tiêu trừ, khiến cùng khởi tâm từ như cha mẹ, có mong ước điều gì thì đều được như ý.

Bấy giờ, Bồ Tát Chấp Kim Cang, Đế Thích, Phạm Thiên và bốn vị Thiên Vương, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, đảnh lễ nơi chân Phật Thích Ca Mâu Ni, rồi thưa: Bạch Thế Tôn! Chúng con và đại chúng đã được nghe công đức thù thắng về bản nguyện của Chư Phật và được diện kiến Chư Phật, vì tâm từ bi mà đến đây, khiến cho chúng con được gần gũi cúng dường.

Bạch Thế Tôn! Ở nơi nào có Kinh Điển này, danh hiệu bảy Đức Phật và pháp Đà La Ni lưu truyền, hoặc cúng dường cho đến biên chép, chúng con đều nương theo oai lực của Phật, liền đến nơi ấy để ủng hộ cho người đó, khiến cho quốc vương, đại thần, thành ấp, xóm làng, thiện nam, thiện nữ… không còn bị các khổ sở và các bệnh tật quấy nhiễu, thường được an ổn, tài sản dồi dào, đó là chúng con đã báo đáp ân đức của Chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Chúng con đích thân ở trước Ngài để phát nguyện: thiện nam, thiện nữ nào có lòng tin thanh tịnh, nhớ nghĩ đến chúng con thì nên tụng Thần Chú này.

Liền nói Thần Chú:

Đát điệt tha, ác cù mạc cù, đát la cù, ma ma cù cụ lệ, ha hồ, tê, mạt la mạt la mạt la, khẩn thọ, lệ bố lệ, ta ha.

Thiện Nam, thiện nữ nào có lòng tin, hoặc quốc vương, vương tử, đại thần, tể tướng và các thể nữ trong cung… trì niệm danh hiệu bảy Đức Phật và Thần Chú này, hoặc đọc tụng, biên chép, cung kính cúng dường thì trong đời hiện tại, người ấy không bệnh.

Được sống lâu, không còn khổ đau, không đọa vào ba cõi ác, đạt được không thoái chuyển cho đến quả vị bồ đề, được thọ sinh tùy ý đến cõi nước của Chư Phật kia, thường gặp Chư Phật, chứng đắc trí túc mạng, đầy đủ niệm, định và các pháp tổng trì, nếu bị các tai nạn về quỷ thần hoặc các bệnh về lạnh nóng… thì nên biên chép Thần Chú này rồi buộc vao cổ tay, khi bệnh đã bớt thì đem đến tôn trí nơi thanh tịnh.

Bấy giờ, Bồ Tát Chấp Kim Cang đi đến chỗ bảy Đức Phật, nhiễu quanh theo hướng bên phải ba vòng, đích thân kính lễ, rồi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Chư Phật từ bi hộ niệm cho con. Hôm nay, con muốn tạo lợi ích cho thiện nam, thiện nữ thọ trì Kinh này ở đời sau, nên vì họ diễn nói chú Đà la ni.

Lúc ấy, bảy Đức Phật liền khen ngợi Bồ Tát Chấp Kim Cang: Lành thay! Lành thay! Này Bồ Tát Chấp Kim Cang! Chư Như Lai sẽ gia hộ, ông nên nói Thần Chú để hộ trì cho những người ở đời sau thọ trì Kinh này, khiến họ không còn phiền não, mọi mong cầu đều được mãn nguyện.

Bồ Tát Chấp Kim Cang liền nói Thần Chú:

Nam ma tiệp đa nam, tam miệu tam Phật đà nam, nam ma tát bà bạt chiết la đạt la nam đát điệt tha. Án, bạt chiết lệ, bạt chiết lệ, mạc ha bạt chiết lệ, bạt chiết la ba xả, đà lặc nễ tam ma tam ma, tam mạn hài, a bát lặc để hiết đa, bạt chiết lệ, khổ ma khổ ma, bát la khổ mạn đổ mê, tát bà tỳ a đại dã, cự lỗ cự lỗ, tát bà yết ma, a phạt lặc noa nễ xoa dã, tam ma dã mạt nô tam mạt la bộ dà bạn bạt chiết la ba nễ tát bà hàm mê bát lý, bô lặc dã, ta ha.

Bạch chư Như Lai! Có người nào trì niệm danh hiệu bảy Đức Phật, nhớ nghĩ đến công đức, bản nguyện của Chư Phật và thọ trì, đọc tụng, giảng nói Thần Chú này, con sẽ đáp ứng đầy đủ những mong ước của họ, không còn thiếu gì cả.

Nếu muốn gặp con để thưa hỏi những việc thiện, ác thì nên biên chép Kinh này, tạo hình tượng bảy Đức Phật và hình tượng của con, đối với những hình tượng ấy, phải tôn trí như Xá Lợi của Phật, ở trước hình tượng ấy thì như trên đã nói, dùng đủ loại để cúng dường.

Lễ bái và nhiễu quanh, khởi tâm từ bi đối với chúng sinh, giữ gìn tám giới quan trai, mỗi ngày tắm rửa và thay quần áo sạch sẽ ba lần, từ ngày mùng tám đến ngày mười lăm trăng sáng, mỗi ngày tụng Thần Chú này một trăm lẻ tám biến, tâm không tán loạn, ở trong giấc mộng của người ấy, con sẽ hiện thân để giảng nói cho họ, có cầu nguyện điều gì thì đều được đầy đủ.

Khi đó, các Bồ Tát trong đại chúng đều khen ngợi: Lành thay! Lành thay! Bồ Tát Chấp Kim Cang, Thần Chú này là không thể nghĩ bàn, Tôn Giả thật đã khéo giảng nói.

Bảy Đức Như Lai nói: Chư Như Lai sẽ ủng hộ Thần Chú mà ông đã giảng nói, vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến họ được an lạc, thỏa mãn những ước nguyện, làm cho Thần Chú này được lưu truyền ở thế gian.

Bảy Đức Phật lại bảo các Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Thiên và bốn vị Thiên Vương: Hôm nay, chư Như Lai đem Thần Chú và Kinh Điển này giao phó cho các ông.

Ở đời vị lai, sau năm trăm năm, lúc chánh pháp sắp diệt, các ông nên ủng hộ, thọ trì Kinh này, lợi ích, oai lực của Kinh này rất nhiều, có thể tiêu trừ các tội lỗi, mọi ước nguyện đều được thành tựu, đừng để cho những chúng sinh phước mỏng, chê bai chánh pháp, khinh dể Hiền thánh mà thọ trì Kinh này làm cho chánh pháp mau tiêu mất.

Bấy giờ, bảy Đức Thế Tôn ở phương Đông thấy đại chúng này việc làm đã xong, cơ duyên đã đầy đủ, không có tâm nghi ngờ, mỗi vị đều ngự trên tòa, bỗng nhiên biến mất và trở về cõi nước của mình.

Tôn Giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, quỳ gối bên phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì?

Chúng con làm thế nào để thọ trì?

Đức Phật bảo: Này Tôn Giả A Nan! Kinh này tên là Thất Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác Bản Nguyện Công Đức Thù Thắng Trang Nghiêm, cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi Sở Vấn, cũng gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bản Nguyện Công Đức.

Cũng gọi là Chấp Kim Cang Bồ Tát Phát Nguyện Yếu Kỳ, cũng gọi là Tịnh Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng, cũng gọi là Sở Hữu Nguyện Cầu Giai Đắc Viên Mãn, cũng gọi là Thập Nhị Đại Tướng Phát Nguyện Ho Trì… các danh hiệu như thế, các ông nên theo đấy mà thọ trì.

Khi Đức Thế Tôn Giảng nói Kinh này xong, các Đại Bồ Tát, chúng Thanh Văn, Trời, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhân… tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất hoan hỷ, tin nhận và thực hành.

***