Kinh Nguyên thủy

Bộ Kinh Tập

PHẬT THUYẾT KINH HIỀN THỦ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Khất Phục Tần Thánh Kiên, Đời Tây Tấn
 

Nghe như vậy!

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma Kiệt Đề, nơi pháp tòa thanh tịnh, cả pháp hội có nhiều vị Bồ Tát như Bồ Tát Di Lặc… và các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Chư Thiên, Rồng, Quỷ, Thần, A Tu La đều hội đủ.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Hôm nay, mười phương Phật cũng có đại hội vì các Bồ Tát mà thuyết giảng Kinh.

Trong pháp tòa thanh tịnh có Ưu Bà Di là phu nhân của Quốc Vương Bình Sa tên Bạt Đà Sư Lợi, chắp tay bach Phật: Kính thưa Thế Tôn! Con muốn được nghe danh hiệu mười phương Phật, tên chư vị Bồ Tát và các quốc độ đó.

Phật bảo: Lành thay, lành thay! Ta sẽ vì phu nhân mà nói về điều đó.

Ở phương Đông, có vị Phật hiệu là Nhập Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Trì Kế Thọ, Bồ Tát tên Kính Thủ.

Ở phương Nam, có vị Phật hiệu là Bất Xả Lạc Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Thế Niệm Thọ, Bồ Tát tên Giác Thủ.

Ở phương Tây, có vị Phật hiệu là Trưởng Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Liên Hoa Thọ, Bồ Tát tên Bảo Thủ.

Ở phương Bắc, có vị Phật hiệu là Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Tân Dĩ Thọ, Bồ Tát tên là Thí Thủ.

Ở phương Đông Bắc, có vị Phật hiệu là Ai Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Thanh Liên Thọ, Bồ Tát tên là Công Đức Thủ.

Ở phương Đông Nam, có vị Phật hiệu là Bách Lam Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Hương Thọ, Bồ Tát tên là Linh Thủ.

Ở phương Tây Nam, có vị Phật hiệu là Thượng Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Bảo thọ, Bồ Tát tên Tinh Tấn Thủ.

Ở phương Tây Bắc, có vị Phật hiệu là Nhất Độ Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Tư Duy Thọ, Bồ Tát tên là Thiện Thủ.

Ở phương dưới, có vị Phật hiệu là Phạm Tinh Tấn, cõi ấy gọi là Thủy Tinh Thọ, Bồ Tát tên là Trí Tuệ Thủ.

Khi Phu Nhân Bạt Đà Sư Lợi nghe danh hiệu của mười phương Phật, tên các vị Bồ Tát và các quốc độ thì vui mừng khôn xiết, ở trước Phật, đầu mặt đảnh lễ sát đất, bạch Phật: Kính thưa Thế Tôn! Nay con tuy đã phát tâm nơi đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, nhưng phải dùng phương pháp gì để xa lìa thân nữ?

Phật bảo: Lành thay, lành thay! Phu nhân đã hỏi Phật về sự việc như vậy.

Này Phu Nhân Bạt Đà Sư Lợi! Nên phụng hành mười việc thì có thể xa lìa thân nữ.

Có một việc mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Là phát tâm cầu đạt Nhất thiết trí, làm vô số công đức, nhưng chẳng mong cầu. Đó là một việc.

Lại có hai việc, bỏ được thân nữ mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Làm như lời đã nói, không thờ Chư Thiên mà chỉ quy y Chư Phật.

2. Làm các việc chánh tín.

Đó là hai việc.

Lại có ba việc, người nữ mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Thường bảo vệ ba nghiệp nơi thân cho thanh tịnh.

2. Bảo vệ bốn nghiệp nơi miệng cho thanh tịnh.

3. Bảo vệ ba nghiệp nơi ý cho thanh tịnh.

Đó là ba việc.

Lại có bốn việc, người nữ mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Bố thí không tự đắc.

2. Giữ giới không khoe khoang.

3. Tự giữ mình thanh tịnh.

4. Có niềm tin khi nghe sáu pháp giới không dâm, không trộm, không sát, không dối trá, không uống rượu, không ăn trái thời.

Đó là bốn việc.

Lại có năm việc, người nữ mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Biết dùng pháp.

2. Làm như pháp.

3. Nghe pháp kiên định.

4. Không ưa thân nữ.

5. Muốn làm thân nam.

Đó là năm việc.

Lại có sáu việc, người nữ mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Không làm biếng, hoàn thành công việc.

2. Tâm tánh dịu dàng.

3. Thật thà, ngay thẳng.

4. Không dua nịnh.

5. Không trách mắng.

6. Làm việc phải hết lòng.

Đó là sáu việc.

Lại có bảy việc, người nữ mau chóng thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Luôn nhớ nghĩ đến pháp thân Phật.

2. Luôn nhớ nghĩ về pháp để được trí tuệ Phật.

3. Luôn nhớ nghĩ về Tăng, vì muốn thân thuộc.

4. Luôn nhớ nghĩ về giới, vì cầu trong sạch.

5. Luôn nhớ nghĩ về bố thí, vì muốn từ bỏ tâm keo kiệt, bỏn sẻn.

6. Luôn nhớ nghĩ về Cõi Trời, để được tâm Bồ Tát.

7. Luôn nhớ nghĩ đến mọi người, vì muốn độ tất cả.

Đó là bảy việc.

Lại có tám việc, người nữ mau thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Không vì miếng cơm, manh áo cho là vui.

2. Không lãng phí.

3. Không thoa hương.

4. Cũng không dùng các loại hương khác.

5. Không ham thích vui chơi.

6. Không đàn nhạc.

7. Cũng không ca múa.

8. Trong một tháng phải ăn sáu ngày.

Đó là tám viec.

Lại có chín việc, người nữ mau thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Không có chỗ đoạn trừ.

2. Không chỗ vướng mắc.

3. Không ngã.

4. Không nghĩ có người.

5. Không nghĩ có sự nhận.

6. Không nghĩ có thọ mạng.

7. Không nghĩ có chỗ để sinh ra.

8. Không nghĩ không có chỗ để sinh ra.

9. Luôn lìa mười hai nhân duyên.

Đó là chín việc.

Lại có mười việc, người nữ mau thành thân nam, tự mình đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác:

1. Có lòng lành đối với tất cả.

2. Không tham tất cả đồ vật của người.

3. Không nghĩ đến người nam khác.

4. Không nói hai lưỡi.

5. Không nói ác khẩu.

6. Không nói lời giả dối.

7. Không nói lời thêu dệt.

8. Không tham đắm nơi tiếng đàn tiếng nhạc hay.

9. Không khởi ý, cũng không tức giận, chỉ trụ nơi chánh niệm.

10. Không cùng với người làm việc bất chánh.

Đó là mười việc.

Phật thuyết giảng Kinh xong, Phu Nhân Bạt Đà Sư Lợi và sáu vạn Ưu Bà Di trong nước Ma Kiệt Đề, nghe pháp hành đều phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Các Bồ Tát như: Bồ Tát Di Lặc… Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, các chúng Thiên, Rồng, Quỷ, Thần, A Tu La… đứng trước Phật đảnh lễ sát đất, vui vẻ lui ra.

***