Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Hưng Khởi Hạnh

PHẬT THUYẾT

KINH HƯNG KHỞI HẠNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Khang Mạnh Tường, Đời Hậu Hán
 

PHẬT THUYẾT KINH NHÂN DUYÊN

BỊ CÂY GIÁO ĐÂM CHÂN
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở tại Tinh Xá Trúc Viên, La Duyệt Kỳ, cùng với Đại Tỳ Kheo Tăng là năm trăm vị. 

Đức Thế Tôn vào lúc sáng sớm, mặc y bưng bát cùng với năm trăm Tỳ Kheo Tăng và Tôn Giả A Nan, vây quanh cùng vào thành La Duyệt Kỳ để khất thực, đang đến các nhà bỗng thấy một thanh gỗ dài một thước hai của người đẽo gỗ cứng trong xóm, đang chạy loạn xạ theo bên Phật và đứng ngay trước Ngài.

Đức Phật liền nghĩ: Điều này do nhân duyên kiếp trước do chính ta tạo ra, nay ta phải gánh lấy. Mọi người thấy chuyện lạ đều xúm lại xem. Họ thấy xong, kinh ngạc, la thất thanh.

Đức Phật lại nghĩ: Nay ta nên hiện rõ sự quả báo kiếp trước, cho mọi người thấy, tin và hiểu sự gánh lấy tai ương đời trước, để họ không dám tạo điều ác.

Do đo, Đức Phật bay lên hư không, cách mặt đất một nhẫn. Cây giáo nhọn liền đuổi theo Đức Phật cũng cao một nhẫn, đứng trước Đức Phật.

Đức Phật lại bay lên cao hai nhẫn, ba nhẫn, bốn nhẫn cho đến bảy nhẫn, cây giáo cũng đuổi theo Ngài cao đến bảy nhẫn.

Đức Thế Tôn lại bay lên cao một cây Đa La, thì cây giáo cũng bay theo cao đến một cây Đa La.

Đức Phật bay lên cao bảy cây Đa La, cây giáo nhọn cũng đuổi theo và đến đứng trước Ngài.

Đức Phật lại bay cao bảy dặm, cây giáo cũng bay theo cao bảy dặm.

Đức Phật lại bay cao mười dặm, cây giáo cũng bay cao như vậy.

Đức Phật lại bay cao một do diên, cây giáo cũng bay theo Ngài.

Đức Phật lại bay cao bảy do diên, cây giáo cũng đuổi theo Ngài.

Khi ấy Đức Phật ở trên không trung lại hoá thành một tảng đá xanh, bề dày sáu do diên, rồi Ngài đứng trên tảng đá ấy. Cây giáo liền đâm thủng tảng đá, đứng trước Đức Phật. Đức Phật lại ở trên không trung hoá ra một dòng nước, rộng mười hai do diên, sâu sáu do diên. Ngài đứng trên dòng nước ấy, cây giáo lại xuyên qua dòng nước, đứng trước Đức Phật.

Đức Phật lại ở trên không trung hoá thành một đống lửa lớn, bề sáu rộng mười hai do diên, cao do diên, rồi đứng trên đống lửa ấy. Cây giáo cũng xuyên qua đống lửa, đến đứng trước Đức Phật.

Đức Phật lại ở trên hư không hoá thành luồng gió xoáy rộng mười hai do diên, cao do diên, rồi đứng trên luồng gió ấy, cây giáo bay theo một bên chênh chếch, đến đứng trước Đức Phật.

Đức Phật lại bay lên cung điện Tứ Thiên Vương, rồi ở trong đó, cây giáo cũng bay theo rồi đứng trước Đức Phật. Đức Phật lại bay lên Cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba, ngồi trên tảng ngọc Lưu Ly vuông vức một do diên. Cây giáo cũng bay theo, đến đứng trước Đức Phật.

Sau khi Đức Phật đi rồi, các Tứ Thiên Vương bảo nhau rằng: Đức Phật sợ cây giáo này, nhưng cây giáo vẫn đuổi theo Ngài, không tha. Họ đều có vẻ không vui.

Đức Phật từ Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba biến mất, hiện đến Cõi Trời Diệm Thiên. Rồi biến mất khỏi Diệm Thiên, hiện đến Đâu Suất. Biến mất khỏi Đâu Suất, hiện đến Niết Ma La Tha. Biến mất khỏi Niết Ma La Tha, hiện đến Bà La Ni Mật. Biến mất khỏi Bà La Ni Mật, hiện đến Phạm Thiên. Nhưng cây giáo từ Cõi Trời thứ ba mươi ba, thứ lớp đi lên, cho đến Cõi Phạm Thiên, đứng trước Đức Phật.

Lúc ấy Chư Thiên đều bảo nhau rằng: Đức Phật sợ cây giáo này bỏ chạy, mà nó vẫn đuổi theo không tha!

Bấy giờ Thế Tôn Tự nói nhân duyên kiếp trước của mình cho các Phạm Thiên nghe. Từ Cõi Trời Phạm Thiên, Ngài xuống Bà La Ni Mật, từ cõi Bà La Ni Mật, Ngài xuống Niết Ma La Tha.

Từ Niết Ma La Tha, Ngài xuống Cung Trời Đâu Suất. Từ Đâu Suất, Ngài xuống Diệm Thiên, từ Diệm Thiên, Ngài đến Cõi Trời thứ ba mươi ba.

Từ Cõi Trời thứ ba mươi ba, Ngài xuống Cõi Trời Tứ Thiên Vương, từ Tứ Thiên Vương, Ngài trở về thành La Duyệt Kỳ. Qua các Cõi Trời, Ngài đều thuyết pháp nhân duyên kiếp trước. Lúc ấy cây giáo vẫn đuổi theo Ngài trên các Cõi Trời cho đến lúc Ngài xuống La Duyệt Kỳ.

Đức Phật cũng nói về nhân duyên quá khứ cho mọi người ở thành La Duyệt Kỳ nghe.

Đức Phật cùng Tỳ Kheo Tăng ra khỏi thành La Duyệt Kỳ mà cây giáo vẫn đuổi theo Đức Phật.

Khi ấy mọi người trong nước đều đi theo Đức Phật ra khỏi thành.

Bấy giờ Đức Phật hỏi mọi người: Các ngươi muốn đi đâu?

Mọi người thưa rằng: Chúng con muốn theo Đức Như Lai để xem nhân duyên này.

Đức Phật bảo mọi người: Các ngươi hãy tự trở về, Đức Như Lai tự biết thời tiết.

Tôn Giả A Nan hỏi Đức Phật: Tại sao Đức Như Lai bảo mọi người phải trở về?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Nếu mọi người thấy ta trả quả báo này, họ sẽ chết ngất rơi xuống đất.

Tôn Giả A Nan liền im lặng: Đức Thế Tôn trở về Tinh Xá Trúc Viên, tự ở trong phòng bảo các Tỳ Kheo: Các ngươi hãy trở về phòng mình.

Mọi người vâng lời đều trở về phòng.

Tôn Giả A Nan hỏi Đức Phật: Con sẽ làm gì?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ngươi cũng trở về phòng của mình.

Tôn Giả A Nan liền trở về phòng.

Đức Phật liền suy nghĩ: Việc này do đời trước ta tự tạo, chắc chắn ta phải gánh lấy. Ngài liền lấy Đại y, gấp làm bốn lớp, ngồi lên chỗ ngồi cũ.

Đức Phật liền đưa chân mặt ra. Khi ấy cây giáo liền từ gót chân Ngài đưa lên rồi đâm xuống, rồi xuyên qua lòng đất, sâu đến sáu vạn tám ngàn do diên. Xuyên qua đất thì đến nước, nước sâu sáu vạn tám ngàn do diên. Xuyên qua nước đến lửa. Lửa cao sáu vạn tám ngàn do diên. Khi cây giáo đến lửa thì bị cháy tiêu. Ngay khi ấy, mặt đất có sáu lấn chấn động.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan, các Tỳ Kheo đều tự nghĩ rằng: Mặt đất bây giờ chấn động chắc cây giáo đã đâm trúng chân Đức Phật rồi!

Khi Đức Phật bị cây giáo đâm xong, liền bị đau một cách khổ sở, đau một cách cay nghiệt, đau một cách nhức nhối, đau gần đứt hơi thở.

Tôn Giả A Nan liền đến chỗ Đức Phật, thấy cây giáo đâm vào chân Ngài làm bị thương, liền bị chết ngất, ngã nhào xuống đất.

Đức Phật liền lấy nước rảy lên Tôn Giả A Nan, Tôn Giả A Nan đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, xoa vào chân Ngài, khóc lóc rơi lệ nói rằng: Đức Phật nhờ chân này mà đến dưới gốc cây hàng phục ma quân. Rồi lên đến Cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba thuyết pháp cho mẹ Ngài.

Thân của Đức Thế Tôn là Kim Cương, do nhân duyên gì mà một cây giáo nhỏ lại làm hại Ngài được?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Thôi đi, chớ có buồn rầu khóc lóc nữa! Vì nhân duyên của thế gian nên bị luân chuyển sanh tử, mới có khổ hoạn này.

Tôn Giả A Nan hỏi Đức Phật: Nay cái vết thương này gây nên đau nhức, nó sẽ phát triển hay sẽ bớt dần?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Dần dần sẽ bớt.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất dẫn các Tỳ Kheo Tăng đến chỗ Đức Phật, cúi lạy dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi Đức Phật: Không biết sự đau nhức của vết thương này của Thế Tôn sẽ phát triển hay bớt dần?

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Sự đau nhức của vết thương sẽ dần dần bớt.

Bấy giờ trong chúng Tỳ Kheo có vị lậu chưa tận, thấy vết thương ấy kêu khóc bi ai, rơi lệ than rằng: Đức Thế Tôn đại từ bi, không có vật nào mà không tế độ, nhưng vì sao lại bị sự đau đớn này?

Đức Phật bảo các vị ấy rằng: Thôi đi, đừng khóc! Đời trước tự ta đã tạo ra việc này, nên phải gánh lấy, không thế trốn tránh ở đâu được. Nó cũng không phải do cha tạo ra, cũng không phải do mẹ tạo ra, cũng không phải do Vua tạo ra, cũng không phải do Trời tạo ra, cũng không phải do Sa Môn, Bà La Môn tạo ra. Chính ta đã tạo thì nay ta phải gánh lấy.

Các vị lậu tận, thần thông, đều im lặng suy nghĩ: Ngày trước Đức Phật đã từng nói kệ:

Người đời đã tạo tác

Hoặc làm thiên hay ác

Việc ấy trở lại mình

Không mất, không hư nát.

Bấy giờ Kỳ Bà nghe Đức Phật bị cây giáo đâm chân, khóc lóc đi đến chỗ Vua A Xà Thế.

Vua A Xà Thế hỏi: Vì sao khanh khóc?

Kỳ Bà đáp: Tôi nghe Đức Phật bị cây giáo đâm chân, nên tôi khóc. Vua A Xà Thế nghe lời nói ấy xong, từ trên giường chết ngất, rơi xuống đất, giây lâu mới tỉnh. Khi ấy, toàn cung điện trong và ngoài đều kinh hoàng, sợ hãi.

Nhà Vua đứng dậy, rơi nước mắt, ra lệnh quần thần: Hãy mau chuẩn bị xe cộ, ta muốn đến chỗ Đức Phật.

Quần Thần vâng lệnh, chuẩn bị xe cộ xong tâu Vua: Xe cộ đã chuẩn bị xong. Nhà Vua liền lên xa, đi ra khỏi thành. Bốn Tộc Tánh trong thành, thanh tín nữ, nghe Đức Phật bị cây thương đâm vào chân, vì vậy Nhà Vua cùng em là Kỳ Bà, với dân chúng trong thành có cả trăm ngàn người vây quanh, cùng đi đến chỗ Đức Phật.

Vua xuống xe, cởi mũ, bỏ kiếm, cất lộng, đi bộ đến chỗ Đức Phật. Lúc ấy Đức Phật đang nằm bên hông phải.

Nhà Vua đảnh lễ Đức Phật xong, lấy tay nắm chân Đức Phật, xoa nén, miệng thì tự xưng quốc hiệu, tên họ rằng: Con là A Xà Thế, Vua nước Ma Kiệt, thăm hỏi Đức Thế Tôn: Sự đau nhức của vết thương có giảm chút nào chăng?

Đức Phật trả lời Vua A Xà Thế: Mong Đại Vương thường được an ổn, trường thọ, không bệnh, Vua nên lấy pháp trị dân, đừng hành động phi pháp. Đức Phật bảo Nhà Vua ngồi xuống. Nhà Vua liền ngồi.

Nhà Vua hỏi Đức Phật: Con theo Đức Như Lai được nghe rằng: Thân của Phật là Kim Cang, không thể huỷ hoại được.

Không rõ vì sao bây giờ lại bị cây giáo bằng gỗ đâm vào chân?

Đức Phật bảo Nhà Vua: Tất cả các pháp đều do nhân duyên mà huỷ hoại. Thân của ta tuy là Kim Cương, gương giáo không thể phá hoại được, nhưng do nhân duyên kiếp trước huỷ hoại.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài tụng:

Người đời đã tạo tác

Liền tự thấy hành động.

Làm thiện được báo thiện

Làm các bị báo ác.

Cho nên này Đại Vương! Cần phải học bỏ điều ác, theo đều thiện. Những kẻ ác độc ngu si không học vấn chưa biết chân đạo, đùa giỡn, coi thường việc tạo tội, về sau phải khóc lóc mà lãnh thọ.

Cho nên, này Đại Vương! Không nên vì đùa giỡn mà tạo tội.

Vua nên học như vậy!

Nhà Vua bảo Kà Bà: Ngươi hoà hiệp các thứ thuốc thật tốt rửa vết thương, chữa trị và chú nguyên làm cho vết thương của Đức Phật mau lành!

Kà Bà thưa: Xin vâng! Kỳ Bà liền đảnh lễ Đức Phật, rửa chân Ngài, rồi đắp thuốc để sanh da, sau đó đọc lời cầu nguyện để khỏi đau. Kỳ Bà bỏ ra trăm ngàn tiền để mua giạ đắp lên chân Đức Phật.

Lấy tay xoa bớp chân Ngài, dùng miệng chú nguyện: Mong Đức Phật sống lâu, mong tai hoạn này chóng tiêu trừ, mong cho tất cả chúng sanh được vĩnh viễn thoát khỏi cái khổ. Ông liền đứng lên đảnh lễ Đức Phật, rồi đứng qua một bên. Bấy giờ Đức Phật vì Vua A Xà Thế, tất cả mọi người trong hội, nói Pháp Tứ Đế.

Sao gọi là Tứ Đế?

Đó là khổ đế, khổ tập đế, khổ tận đế, khổ tận đạo đế. Đó là Tứ Đế. Khi Đức Phật thuyết như vậy, sáu mươi Tỳ Kheo, được lậu tận, ý khai mở. Một vạn một ngàn người, được pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ Nhà Vua cáo từ thưa rằng: Vì việc nước đa đoan, con xin cáo từ ra về.

Đức Phật bảo: Phải nên biết thời. Vua liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về. Mọi người cũng đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về.

Bấy giờ vào lúc nửa đêm, có bảy vị Thiên Nhân, mỗi vị có thể phát ra trăm thứ âm nhạc, đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh sàn toạ một vòng rồi đứng.

Khi ấy có một vị Trời bạch Đức Phật: Sa Môn Cù Đàm như Sư Tử bị thương, có thể nhẫn nhục chịu sự khổ thống không bảo cho người khác biết.

Lại có một vị Trời nói: Sa Môn Cù Đàm như voi bị thương, có thể nhẫn nhục chịu sự khổ thống không bảo cho người khác biết.

Có một vị Trời lại nói: Sa Môn Cù Đàm như Lê Ngưu biết thời, cũng không biết sự khổ thống.

Một vị Trời lại nói: Sa Môn Cù Đàm như Thuỷ Ngưu, bất giác bị khổ thống.

Một vị Trời lại nói: Sa Môn Cù Đàm như Thiên Vương tám tay bị thương, có thể chịu đựng sự thống khổ.

Một vị Trời lại nói: Sa Môn Cù Đàm như ngựa báu, bất giác bị khổ thống.

Một vị Trời khác lại nói: Sa Môn Cù Đàm quán xét chân lý, thanh tịnh, bất giác bị khổ thống.

Một vị Trời nói: Đức Phật là Sư Tử trong loài người, voi trong loài người, Lê Ngưu trong loài người, Thuỷ Ngưu trong loài người, Thiên Vương tám tay trong loài người, ngựa báu trong loài người, bậc rõ Chân Đế, thanh tịnh trong loài người. Đức Thế Tôn như những ví dụ ấy, có thể chịu đựng sự thống khổ.

Bọn ngu si nhẫn chịu sự thống khổ, nhưng Đức Thế Tôn dùng trí tuệ để nhẫn chịu, không như ngoại học Phạm Chí, vì họ quá trung niên, vứt bỏ tất cả để lấy vợ, mà mong được thoát khổ, làm sao được đắc độ?

Vì sao?

Vì không thể rốt ráo vậy. Trong pháp của Đức Như Lai, thanh tịnh rốt ráo, đoạn các ái dục, được đến Niết Bàn. Như vậy mới có thể vượt qua cái biển hôi thối của ba cõi.

Vì sao?

Vì tâm ý họ được chánh định, từ Tứ Đế mà cầu Niết Bàn.

Vị Trời nói kệ rằng:

Hung dữ khó hàng phục,

Si, nghi, không định trí

Chí mê, ở rừng rú

Không thoát hố sanh tử

Định trí, trừ hung ngu,

Luyện ý, mở trói buộc.

Chí tịnh, không mê hoặc

Là vượt biển sanh tử.

Bấy giờ, vị Trời nói kệ xong, Đức Phật im lặng chấp nhận. Các vị Trời thấy Đức Phật im lặng, biết Ngài bằng lòng, liền cúi lạy dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, bỗng nhiên biến mất.

Đến sáng, Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ngày xưa, vô số A tăng kỳ kiếp về trước, bấy giờ có hai đội khách buôn. Mỗi đội có năm trăm người, tại Ba La Nại, họ đều bỏ chung tiền của, muốn đóng thuyền đi biển, công việc đã xong, mở neo, trương buồm, xuất hành.

Gió thổi đưa đi, liền đến bãi biển ngọc quý. Trên bãi thấy có sự giàu có, nào là y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, toạ cụ và các cô gái xinh đẹp, đủ loại châu báu, chẳng thiếu thứ gì.

Bấy giờ người chủ của một đội khách buôn bảo mọi người rằng: Chúng ta vì của cải nên mới khổ sở đến đây. Nay điều mong ước đã đạt được, vậy nên ở lại đây, lấy năm điều vui thích để tự vui chơi.

Còn người chủ của đội thứ hai là Tát Bạt, bảo nhóm ông rằng: Ở đây tuy giàu có, các chân báu, ngũ dục, thể nữ, y thực không thiếu thứ gì, nhưng không nên ở đây lâu.

Bấy giờ ở trên hư không có vị Thiên Nữ, thương yêu đoàn khách buôn này, muốn khiến cho họ mong gì được nấy, có nhiều của cải, trở về an toàn, nên ở trên hư không bảo các khách buôn rằng: Ở đây tuy có của cải, ngũ dục, thể nữ, y phục, đồ ẩm thực, nhưng không nên ở lâu, phải sớm trở về.

Vì sao?

Vì sau bảy ngày nữa, vùng đất này sẽ bị chìm dưới nước. Vị ấy noi xong, biến mất.

Lại có Thiên Ma Nữ, ý muốn khiến cho các khác buôn này bị chết hết tại đây, không thể trở về, bấy giờ ở trên không trung, bảo rằng: Các ngươi không nên chuẩn bị ghe thuyền trở về làm gì, vì ở đây rất khoái lạc, hết sức vui sướng. Mặt đất tại đây, ban đầu không có nước đến, cho dù có nước đến đây đi nữa, thì tại đây sẵn có châu báu, đồ ẩm thực, y phục, các gái đẹp, ngũ dục đầy đủ.

Do đâu mà có?

Vì vị Trời trước đã nói: Nước sẽ ngập chìm vùng này. Đó là lời hư vọng, không đủ để tin tưởng. Nói vậy xong, biến mất.

Bấy giờ người chủ của đoàn thứ nhất là Tát Bạt, nghe Thiên Nữ nói xong, bảo mọi người rằng: Các bạn chớ có chuẩn bị thuyền bè để trở về làm gì. Chớ có tin vào lời vị Trời trước nói. Đó là hư vọng mà thôi. Ở đây khoái lạc, ngũ dục đầy đủ. Vì ở Diêm Phù khổ sở, chính là muốn cầu đến đây.

Nay đã đến được rồi sau lại bỏ mà đi?

Người chủ Tát Bạt thứ hai lại bảo mọi người trong nhóm: Các bạn chớ tham ngũ dục mà ở đây lâu. Sau bảy ngày nửa nước sẽ dâng lên phủ bằng nơi đây, phải mau mua bán, chuẩn bị tu sửa ghe thuyền, vì vị Trời trước đã nói lời chí thành, chớ không phải hư dối. Giả sử nếu bảy ngày mà không có nước dâng, chúng ta vẫn phải sửa lại ghe thuyền để trở về kia mà.

Há chúng ta có thể bỏ cha mẹ vợ con ở quê nhà sao?

Còn nếu sau bảy ngày, nước không đến đây, chúng ta sẽ ở đây, lấy ngũ dục để vui chơi, sau đó từ từ sẽ trở về. Nếu nước tràn ngập như vị Trời trước đã nói, thì chúng ta vẫn chuẩn bị xong, đi trở lại nào có khó gì.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Sau đó bảy ngày, như lời vị Trời trước đã nói, nước phủ bằng mặt đất. Đoàn Tát Bạt thứ hai, khi ấy trước đã chuẩn bị xong rồi, ngày nước dang lên tất cả đều được lên thuyền.

Còn đoàn Tát Bạt thứ nhất, vì trước đó không sửa soạn, chuẩn bị, nên ngày nước dâng lên họ giành thuyền của đoàn đã chuẩn bị xong. Thuyền chủ vì muốn sống còn, không để họ đi trước, mới mặc áo giáp, cầm gậy để đánh nhau. Vị Tát Bạt thứ nhì ở trên thuyền dùng mâu kích đâm Tát Bạt thứ nhất làm cho y gãy chân rồi mạng chung.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Người có biết người Tát Bạt thứ nhất là ai chăng?

Đó là Đề Bà Đạt Đa. Còn người Tát Bạt thứ hai dùng mâu kích để đâm Tát Bạt thứ nhất đó chính là thân ta. Bấy giờ đoàn khách buôn năm trăm người đoàn khách buôn thứ nhất thì nay là đệ tử của Đề Bà Đạt Đa. Còn năm trăm người khách buôn của đoàn thứ hai lúc đó thì nay là năm trăm vị La Hán vậy.

Vị Thiên Nữ lúc ấy, nay chính là Xá Lợi Phất. Thiên Nữ thứ hai lúc ấy thì nay là đệ tử Bà La Môn của Tỳ Kheo Mãn Nguyện vậy.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Đời trước ta làm Tát Bạt, tham của sợ chết, vượt biển, cùng tranh thuyền với chủ ghe thứ nhất, lấy mâu kích đâm vào chân y. Do nhân duyên đó, trong vô số ngàn năm, mãi chịu khổ trong địa ngục, ở trong địa ngục vô số ngàn năm, bị mâu kích đâm chém, vô số ngàn năm đọa trong loài súc sanh, bị người săn bắn, trong vô số ngàn năm ở trong loài ngạ quỷ, bị chùy sắt đánh.

Nay tuy được thân Kim Cang của Như Lai rồi, nhưng do dư ương đời trước còn sót lại, nay mới bị cây giáo đâm chân.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ túc duyên:

Đời trước là Tát Bạt

Lên thuyền đi ra biển

Hai người cùng tranh thuyền

Lấy mâu đâm kẻ ấy

Vì do nhân duyên ấy

Mãi chịu khổ địa ngục

Làm súc sanh bị bắn

Ngạ quỷ, trên cây chùy

Nay đã thành Phật Đạo

Vì thương xót chúng sanh

Tuy được thân Kim Cang

Không tránh khỏi giáo nhọn

Nhân duyên trọn chẳng mất

Cũng không thành hư không

Phải giữ ba nhân duyên

Đừng phạm thân, khẩu, ý.

Ta nay thành Tôn Phật

Được làm tướng ba cõi

Trong suối lớn A Nậu

Tự nói duyên kiếp trước.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ngươi xem Đức Như Lai các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ, với Chư Trời, Rồng, Quỷ Thần, Vua Trời Đế Thích, Quần Thần và nhân dân, tất cả chúng sanh đều muốn cho họ được độ thoát, mà còn không thoát khỏi sự báo ứng này.

Huống chi bọn ngu si, tăm tối chưa thấy đạo?

Cho nên, này Xá Lợi Phất! Phải giữ gìn thân, khẩu, ý, đừng phạm ba thứ ấy.

Này Xá Lợi Phất! Các ngươi nên học như vậy. 

Đức Phật Thuyết như vậy xong, Tôn Giả Xá Lợi Phất hoan hỷ phụng hành.

***