Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Hợp Bộ

PHẬT THUYẾT KINH

KIM QUANG MINH HỢP BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Chân Đế, Đời Trần
 

PHẨM NĂM

PHẨM NGHIỆP CHƯỚNG DIỆT
 

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn thiện chánh phân biệt vào đến thâm pháp diệu hữu gọi là thiền, từ lỗ chân lông phóng ra đủ thứ ánh sáng. Vô lượng trăm ngàn thứ sắc màu đều từ thân phát ra.

Nhân bên trong ánh sáng này, tất cả đất nước Chư Phật đều hiện ra trong ánh sáng. Đời ác năm trược nhiều như cát Sông Hằng mà thí dụ tính toán chẳng thể bì kịp ở mười phương được ánh sáng này soi đến.

Những chúng sinh ở các cõi đó đã làm mười ác, nghiệp năm Vô gián, bài báng Tam Bảo, bất hiếu với cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn, khinh mạn tôn trưởng... đáng đọa vào địa ngục, ngã quỷ, súc sinh... nhưng mỗi mỗi đều nhờ ơn ánh sáng đến chỗ họ ở.

Những chúng sinh đó thấy ánh sáng ấy rồi thì ứng niệm an lạc. Nhân uy lực của ánh sáng nên các chúng sinh trở nên đoan chính vi diệu, sắc tướng đầy đủ, phước đức trang nghiêm, đều được gần gũi các Đức Phật Thế Tôn.

Lúc đó, đại chúng cùng Thiên Đế Thích và Nữ Thần Sông Hằng đều đến chỗ hội, lui ngồi một bên.

Đến đây, Thiên Đế Thích thừa thần lực của Đức Phật, liền đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Làm sao thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, tu hành đại thừa, nhiếp thọ tất cả chúng sinh?

Những nghiệp chướng đó làm sao sám hối mà được giải thoát?

Đức Phật dạy rằng: Hay thay! Hay thay!

Này thiện nam tử! Ông nay tu hành muốn vì vô lượng vô số vô biên chúng sinh, khiến cho họ được thanh tịnh giải thoát an lạc, thương xót chúng sinh!

Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh vì nghiệp chướng nên rơi vào nhiều thứ tội, cần phải ngày đêm sáu thời trật áo vai phải, gối phải đặt xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng tự nói rằng: Quy mạng đảnh lễ tất cả Chư Phật Thế Tôn hiện tại mười phương Thế Giới đã được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, chuyển pháp luân, chiếu pháp luân, trì pháp luân, mưa xuống đại pháp vũ, đánh lên trống đại pháp, thổi loa đại pháp, phát ra âm thanh vi diệu, dựng đại pháp tràng.

Thắp đuốc đại pháp vì muốn lợi ích an lạc cho chúng sinh, hành pháp thí dỗ dành tiếp dẫn, gánh vác tất cả chúng sinh, vì khiến cho vô lượng vô số chúng sinh được thanh tịnh, được an lạc, vì khiến cho đại chúng được đại quả báo, vì Chư Thiên, người đời được thanh tịnh.

Như vậy Thế Tôn nên đáp ứng sự lễ bái cung kính! Con dùng thân miệng ý đảnh lễ quy y chân thành. Những Đức Thế Tôn này dùng chân thật tuệ, dùng chân thật nhãn, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng biết hết, thấy hết nghiệp thiện ác của tất cả chúng sinh.

Con từ vô thỉ theo dòng sinh tử cùng tất cả chúng sinh đã tạo nghiệp chướng, bị sự ràng buộc của tham, sân, si v.v... khi chưa biết Phật, khi chưa biết pháp, khi chưa biết Tăng thì chưa biết thiện ác mà vì thân miệng ý bị vô lượng tội.

Do lòng ác nên làm chảy máu thân Phật, bài báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, giết hại A La Hán, giết hại cha mẹ, mười pháp bất thiện tự làm, dạy người khác làm, thấy người làm tùy hỷ.

Thân ba, miệng bốn, ý ba nghiệp hạnh, đối với các chúng sinh ngang ngược phát sinh sự chê bai, cân đong lừa dối lấy ngụy làm chân, đồ ăn uống bất tịnh đem cho chúng sinh, đối với cha mẹ sở hữu trong sáu đường sinh tử xúc phạm não hại nhau, vật dụng của Chùa Tháp, vật dụng của thường trụ Tăng, vật dụng của tứ phương Tăng sinh tâm trộm cắp cướp đoạt mà sử dụng tự tại.

Như lời Đức Phật nói, dạy bảo về pháp luật thì phân biệt lỗi lầm, học tập xằng bậy. Sư Trưởng dạy bày chẳng tùy tùng nhau. Có người hành Thanh Văn, người hành Duyên Giác, người hành đại thừa thì sinh lòng ưa nhục mạ khiến cho lòng những người tu hành thoái lui, sầu hận.

Thấy có người hơn mình liền ôm lòng ganh ghét, pháp thí, tài thí mà sinh ra chướng ngại, vô minh che phủ, tà kiến nghi hoặc, sử ác tăng trưởng, ở chỗ Chư Phật mà khởi lời nói ác, pháp nói phi pháp, phi pháp nói là pháp... những tội như vậy, ngay như Chư Phật bằng chân thật tuệ, chân thật nhãn, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng thấy hết biết hết.

Phụng thừa đối trước Chư Phật sám hối đều phát lồ hết, chẳng dám che dấu, tội chưa làm chẳng dám làm nữa, tội đã làm nay đều sám hối!

Nghiệp chướng sở tác đáng đọa vào đường ác, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, A tu la... sinh chỗ mười hai nạn, nguyện xin nghiệp chướng sở hữu đời nay của con đều diệt trừ hết, đời vị lai chẳng thọ giống như việc tu hành đạo tam bồ đề của những Đại Bồ Tát đời quá khứ mà nghiệp chướng sở hữu đều đã sám hối.

Như nghiệp chướng của con hôm nay cũng sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được tiêu trừ, ác đời sau lại chẳng dám làm. Cũng như các Bồ Tát đời vị lai tu hạnh Tam Bồ Đề, nghiệp chướng sở hữu đều đã sám hối.

Như nghiệp chướng của con hôm nay cũng sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác đời sau chẳng dám làm nữa. Cũng như những Đại Bồ Tát của Thế Giới mười phương hiện tại tu hạnh tam bồ đề, nghiệp chướng sở hữu đều đã sám hối.

Như nghiệp chướng của con hôm nay cũng xin sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác đời sau chẳng dám làm nữa.

Cũng như những Đại Bồ Tát ba đời, quá khứ, vị lai, hiện tại, nghiệp chướng như vậy đều xin sám hối. Con cũng như vậy, nghiệp chướng sở hữu nay con cũng xin sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác đời sau chẳng dám làm nữa. Vậy nên thiện nam tử, nếu có tội lỗi trong một sát na chẳng được che dấu, huống gì là một ngày, một đêm.

Này thiện nam tử! Nếu có người phạm tội mà nguyện được thanh tịnh, ôm lòng xấu hổ, tin vào đời vị lai nhất định có quả báo, sinh lòng rất sợ hãi, như vậy tu hành. Ví như trai gái, như lửa cháy đầu, như lửa cháy áo phải cứu cho mau tắt, lửa nếu chẳng tắt, lòng chẳng được yên. 

Thiện nam tử này, nếu đã phạm tội thì cũng lại như vậy, liền nên sám hối, khiến cho tội diệt trừ. Đối với tất cả pháp, muốn cầu thanh tịnh, không các chướng ngại thì như vậy sám hối, tội sau này chẳng dám làm nữa.

Nếu muốn sinh vào nhà giàu sang, vàng bạc, thóc gạo đầy ắp kho lẫm, phát khởi hạnh đại thừa cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh vào gia đình hào quý Bà La Môn đầy đủ bảy báu cũng nên sám hối diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh vào gia đình đại quý Sát Lợi và Chuyển Luân Thánh Vương cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh lên Trời Tứ Thiên Vương cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh lên Trời thứ Ba Mươi Ba, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh lên Trời Phạm Phụ, Phạm Tịnh, Đại Phạm cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh lên Trời Thiếu Quang, Vô Lượng Quang, Tịnh Quang cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh lên Trời Thiếu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn sinh lên Trời Vô Dục, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Kiến, Trời A Ca Ni Sấc cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn cầu quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán cũng nên sám hối, trừ diệt nghiệp chướng.

Nếu muốn nguyện cầu ba minh, sáu thông, Bồ Đề tự tại, Thanh Văn lực, Cứu cánh Thanh Văn Đại Tự Tại, Bích Chi Phật Bồ Đề Tự Tại địa cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Nếu muốn nguyện cầu trí nhất thiết trí, tịnh trí, bất tư nghị trí, bất động trí, Tam Miệu Tam Bồ Đề Chánh Biến trí cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng.

Vì sao vậy?

Này thiện nam tử! Vì tất cả các pháp từ nhân duyên sinh. Lời Như Lai đã nói, tướng khác sinh, tướng khác diệt do nhân duyên khác vậy. Lúc đó, các pháp quá khứ đã diệt đã hết đã chuyển.

Như vậy nghiệp chướng không còn sót lại nữa. Các hành pháp đó chưa được hiện sinh mà khiến cho được sinh ra, nghiệp chướng vị lai lại chẳng khởi lên nữa.

Vì sao vậy?

Này thiện nam tử! Vì tất cả pháp rỗng không. Như Lai đã nói, cũng không chúng sinh, cũng không người sống lâu, cũng không nhân ngã, cũng không sinh diệt, cũng không hành pháp.

Này thiện nam tử! Tất cả các pháp đều nương vào gốc. Gốc này cũng chẳng thể nói.

Vì sao vậy?

Vì quá hơn tất cả tướng vậy. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vào đến chân lý như vậy mà sinh ra tín kính thì đó gọi là không chúng sinh mà có gốc. Do nghĩa này nên nói đến sám hối trừ diệt nghiệp chướng.

Này thiện nam tử! Có bốn thứ pháp thành tựu để thiện nam tử, thiện nữ nhân diệt trừ nghiệp chướng, được vĩnh viễn thanh tịnh.

Những gì là bốn?

Một là chính tâm thành tựu.

Hai là nghĩ đến nghĩa Kinh thậm thâm chẳng sinh bài báng.

Ba là đối với Bồ Tát mới phát tâm khởi lên tâm nhất thiết trí.

Bốn là đối với tất cả chúng sinh khởi lên lòng vô lượng từ.

Nếu có thể thành tựu bốn thứ pháp như vậy mà sám hối thì nghiệp chướng được trừ diệt vĩnh viễn.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Chuyên tâm hộ ba nghiệp

Chẳng bài báng thâm Kinh

Tạo tâm nhất thiết trí

Nghiệp chướng sạch, từ tâm.

Này thiện nam tử! Lại có bốn thứ nghiệp chướng rất lớn khó có thể thanh tịnh.

Những gì là bốn?

Một là đối với luật nghi của Bồ Tát phạm ác rất nặng.

Hai là đối với mười hai Bộ Kinh Đại Thừa mà lòng sinh ra bài báng.

Ba là ở trong tự thân chẳng thể tăng trưởng tất cả thiện căn.

Bốn là tâm tham trước hữu.

Lại có bốn pháp đối trị diệt trừ nghiệp chướng.

Những gì là bốn?

Một là đối với tất cả các Đức Như Lai trong Thế Giới mười phương chí tâm thân cận sám hối tất cả tội.

Hai là vì tất cả chúng sinh trong mười phương mà khuyến thỉnh các Đức Phật nói các diệu pháp.

Ba là tùy hỷ công đức thành tựu sở hữu của tất cả chúng sinh trong mười phương.

Bốn là tất cả công đức căn lành sẵn có của mình đều đem hồi hướng về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Khi đó, Thiên Đế Thích bạch Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Làm sao đối với hạnh đại thừa mà thiện nam tử, thiện nữ nhân có người hành, có người chẳng hành hạnh ấy?

Làm sao mà tùy hỷ được công đức thiện căn của tất cả chúng sinh?

Đức Phật dạy rằng: Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng nói rằng: Tất cả chúng sinh của Thế Giới mười phương tu thí, tu giới, tu định thì con nay đều tùy hỷ. Do sự tùy hỷ như trước nên tôn thắng khả ái vô thượng vô đẳng đều tùy hỷ. Như vậy sở hữu thiện căn quá khứ vị lai đều tùy hỷ.

Ở trong đời hiện tại, công đức phát tâm bồ đề sở hữu của Bồ Tát sơ phát tâm, đại công đức tụ sở hữu của người hành hạnh Bồ Tát hơn trăm đại kiếp, được vô sanh pháp nhẫn, được bất thoái địa, gom công đức được nhất sinh bổ xứ...

Tất cả công đức như vậy đều dùng tùy hỷ khen ngợi đều như nói trên. Công đức của tất cả Bồ Tát quá khứ, vị lai đều tùy hỷ khen ngợi cũng lại như vậy.

Hiện tại mười phương Thế Giới, tất cả Chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã đủ đạo Tam Bồ Đề, vì độ thoát tất cả chúng sinh, chuyển vô thượng pháp luân, làm pháp thí vô ngại, thắp đuốc đại pháp, đánh lên trống đại pháp, thổi loa đại pháp phát ra âm thanh vi diệu, dựng đại pháp tràng...

Tất cả chúng sinh đều nhờ ơn pháp thí đều được no đủ, khuyến hóa chúng sinh đều khiến cho họ tín thọ, vì muốn an lạc cho tất cả chúng sinh, ai niệm tất cả chúng sinh.

Tất cả người Trời đều nhờ ơn an lạc. Thiện căn công đức của Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát đều đã tu tập lập thành. Nếu có chúng sinh chưa đủ các công đức như đây thì đều khiến cho họ đầy đủ. Con đều tùy hỷ mà khen ngợi họ. Nói như vậy cũng như sở hữu công đức của Chư Phật, Bồ Tát và chúng Thanh Văn của ba đời, con đều phát sinh tùy hỷ mà khen ngợi.

Đúng vậy! Này thiện nam tử! Tùy hỷ có vô lượng vô số công đức tụ. Ví như tất cả chúng sinh sẵn có của ba ngàn Đại Thiên Hằng hà sa số Thế Giới đều thành A La Hán, diệt tất cả các lậu mà có thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn cả đời dùng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược tứ sự cúng dường thì công đức như vậy chẳng bì kịp tùy hỷ người tu công đức.

Vì sao vậy?

Vì công đức trước có số có lượng, chẳng nhiếp lấy tất cả các công đức, còn công đức tùy hỷ này không lượng không số, có thể nhiếp lấy tất cả công đức của ba đời.

Vậy nên, này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn tăng trưởng thiện căn của mình thì nên tùy hỷ người tu công đức như vậy. Nếu có nữ nhân muốn chuyển nữ nhân làm nam thân thì nên phải tùy hỷ người tu công đức như vậy.

Lúc đó, Trời Đế Thích bạch Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Nguyện xin Ngài vì con lại nói về công đức khuyến thỉnh. Vì con muốn khiến cho Bồ Tát vị lai được ánh sáng lớn và Bồ Tát hiện tại phát nguyện tu hành.

Đức Phật dạy rằng: Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu nguyện Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thì phải tu hành đạo đại thừa Thanh Văn, Duyên Giác.

Nếu có chúng sinh chưa được tu hành thì ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng tự nói rằng: Đảnh lễ tất cả Chư Phật Thế Tôn mười phương hiện đã được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác có thể chuyển pháp luân vô thượng.

Con hôm nay đều đảnh lễ khuyến thỉnh Chư Phật chuyển pháp luân vô thượng, thắp đèn đại pháp, giữ gìn đạo lý của pháp, thí pháp vô ngại, thắp đuốc đại pháp, mưa xuống đại pháp vũ, đánh trống đại pháp, thổi tù và đại pháp phát ra âm thanh vi diệu, dựng đại pháp tràng vì độ thoát tất cả chúng sinh... đều nói như trên cho đến người Trời đều nhờ ơn an lạc.

Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thì nên tu hạnh Đại Thừa Thanh Văn, Duyên Giác.

Trong số ấy có người chưa tu hành thì ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng tự nói lên rằng: Đảnh lễ tất cả Chư Phật Thế Tôn trong mười phương Thế Giới muốn bỏ ứng thân vào Niết Bàn thì hôm nay con cúi thỉnh Chư Phật chớ Bát Niết Bàn, trụ lâu ở đời, độ thoát, đem an lạc cho tất cả chúng sinh... như đã nói ở trước cho đến người Trời đều nhờ ơn mà an lạc.

Nay con đem công đức thiện căn khuyến thỉnh này để hồi hướng về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Cũng như công đức sở hữu của các vị Đại Bồ Tát quá khứ, vị lai và hiện tại đều hồi hướng về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, con cũng như vậy, tất cả công đức khuyến thỉnh mà con có đều hồi hướng hết về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Giả dụ như có thiện nam tử, thiện nữ nhân dùng thất bảo chứa đầy trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới cúng dường Như Lai.

Nếu lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân khuyến thỉnh Như Lai chuyển đại pháp luân thì phước công đức khuyến thỉnh ấy hơn phước kia.

Vì sao vậy?

Vì thiện căn trên đó tức là tài thí, còn công đức khuyến thỉnh tức là pháp thí.

Này thiện nam tử! Vả như bảy báu đặt ở ba ngàn Đại Thiên hằng hà sa số Thế Giới, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân dùng bảy báu đầy Hằng hà sa số Thế Giới đó mà cúng dường tất cả các Đức Phật. Nhưng nếu lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân khuyến thỉnh Như Lai chuyển đại pháp luân thì phước ấy hơn phước trên kia.

Vì sao vậy?

Vì pháp thí ấy có năm thứ việc.

Những gì là năm?

Một pháp thí thì người và ta đều được lợi, còn tài thí chẳng vậy.

Hai là pháp thí có thể khiến cho chúng sinh ra khỏi ba cõi, còn tài thí thì chẳng ra khỏi Dục Giới.

Ba là pháp thí thì lợi ích cho pháp thân, còn tài thí thì tăng trưởng sắc thân.

Bốn là pháp thí thì tăng trưởng đến vô cùng, còn tài thí thì nhất định có cạn kiệt.

Năm là pháp thí có thể đoạn trừ vô minh, còn tài thí thì dừng phục lòng tham.

Vậy nên, này thiện nam tử! Công đức khuyến thỉnh vô lượng vô số, khó có thể ví dụ. Như thuở xưa khi ta làm hạnh Bồ Tát, như ở trước các Đức Thế Tôn khuyến thỉnh chuyển đại pháp luân.

Do thiện căn này nên tất cả Đế Thích và Đại Phạm Vương khuyến thỉnh ta chuyển đại pháp luân. Thế Tôn thỉnh chuyển pháp luân vì độ thoát và đem an lạc cho tất cả chúng sinh và các người, Trời.

Ta ở thuở xưa, khi làm hạnh bồ đề đã khuyến thỉnh Như Lai ở đời lâu dài chớ Bát Niết Bàn. Nương vào công đức này nên ta được mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện, đại từ đại bi, được vô lượng vô số pháp bất cộng.

Ta đã vào với Vô Dư Niết Bàn mà chánh pháp của ta trụ ở đời lâu dài. Pháp thân của ta thì thanh tịnh vô tỷ với đủ thứ tướng mạo, vô lượng trí tuệ, vô lượng tự tại, vô lượng phước đức khó có thể nghĩ bàn.

Tất cả chúng sinh nhờ ơn sâu từ nhuận mà trăm ngàn vạn ức kiếp nói chẳng thể hết. Vậy nên pháp thân của ta có thể nhiếp tàng tất cả pháp mà tất cả pháp chẳng thể nhiếp tàng pháp thân.

Pháp thân thường trụ chẳng rơi vào thường kiến, tuy lại đoạn diệt nhưng chẳng rơi vào đoạn kiến mà phá tan đủ thứ kiến của tất cả chúng sinh, có thể sinh ra tất cả chủng loại chân kiến, có thể cởi bỏ sự trói buộc cùng sự chẳng khác trói buộc của tất cả chúng sinh.

Có thể gieo trồng những cội rễ thiện của tất cả chúng sinh, có thể thành thục căn lành của tất cả chúng sinh, người đã thành thục thì có thể khiến cho được giải thoát, không tác không động, vô vi tịch mịch, an lạc tự tại, xa lìa rối loạn ồn ào, qua khỏi ba đời có thể thấy ba đời, qua khỏi cảnh giới của Thanh Văn, Duyên Giác, là sự tu hành của Đại Địa Bồ Tát, tất cả Như Lai đều không khác bản thể. Nhờ lực thiện căn công đức khuyến thỉnh nên pháp thân như vậy hôm nay ta đã được.

Vậy nên, này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vì được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác mà một câu, một kệ do giữ gìn, khuyến hóa và vì người giảng nói thì thiện căn công đức khó có thể hạn lượng, huống gì là khuyến thỉnh Như Lai chuyển đại pháp luân, trụ thế lâu dài chớ vào Niết Bàn?

Lúc đó, Trời Đế Thích bạch Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Làm sao thiện nam tử, thiện nữ nhân vì được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác mà tu hành đạo Đại Thừa Thanh Văn, Duyên Giác?

Nếu có chúng sinh chưa được tu hành thiện căn công đức thì làm sao đem hết hồi hướng vì trí nhất thiết trí?

Đức Phật dạy rằng: Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thì tu hành đạo Đại Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

Nếu có chúng sinh chưa được tu hành thì một ngày một đêm, một lòng một ý, miệng tự nói rằng: Con từ vô thỉ sinh tử đến nay, thiện căn đã có của con đều đã thành tựu, ở chỗ Tam Bảo hoặc ở chỗ khác... cho đến súc sinh, người chẳng phải người v.v...

Cho đến đem một thăng, một nhúm đem bố thí cho tất cả, và dùng lời nói khéo léo hòa giải sự đấu tranh, ba qui y, học giới, tất cả thiện căn công đức đều do sám hối mà được, đều do tùy hỷ mà được, đều do khuyến thỉnh mà được.

Những thiện căn đó đặt yên một chỗ rồi nhiếp lấy đồng thời tập hợp xưng lường đều đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh, đã vĩnh viễn xả thí lại không lòng đoạt lấy, giải thoát chẳng nhiếp lấy.

Như Chư Phật Thế Tôn thấy biết chẳng thể nghĩ lường, trí tuệ của Phật, vô ngại, vô cấu. Tất cả thiện căn công đức như vậy, Chư Phật đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh mà chẳng trụ tướng tâm, chẳng xả tướng tâm.

Con cũng như vậy, thiện căn công đức đều đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh. Con nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tay báu phá hư không sinh ra báu thỏa mãn nguyện của chúng sinh.

Phú lạc vô tận, phước đức vô tận, diệu pháp vô tận, tự tại vô tận, bốn biện tài vô tận vì được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, vì được trí nhất thiết trí nên con nay thí cho tất cả chúng sinh thiện căn công đức.

Từ thiện căn này lại thu hoạch vô lượng tất cả thiện căn, rồi con tập hợp xưng lường đem hết hồi hướng về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Nhờ thiện căn này nên đều cùng với chúng sinh chung đến Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, được trí nhất thiết trí. Như đức Đại Bồ Tát thuở xưa tu hành đạo bồ đề thì thiện căn công đức đều hồi hướng vì Nhất thiết chủng trí.

Con cũng như vậy, thiện căn công đức cũng đều hồi hướng về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác và nhân thiện căn này nên cũng cùng với chúng sinh đồng chung cùng một lúc được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Vì được trí nhất thiết trí.

Giống như thiện căn công đức của Đại Bồ Tát vị lai cũng nên hồi hướng chung cùng với tất cả chúng sinh được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Con cũng như vậy, thiện căn công đức sẵn có của con cũng đem hồi hướng... như rộng nói ở trên. 

Giống như thiện căn công đức của đức Đại Bồ Tát hiện tại hồi hướng về Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, cùng với tất cả chúng sinh chung được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Con cũng như vậy, thiện căn công đức sẵn có của con cũng cùng với chúng sinh chung đó... như rộng nói ở trên.

Như các Đức Phật khác ngồi dưới cây Bồ Đề Đạo Tràng, vô cấu thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trụ ở pháp tạng vô tận, Đà La Ni, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, phá Ma Ba Tuần và vô lượng binh chúng, nên thấy nên biết nên giác ngộ, nên thông đạt... tất cả như vậy mà trong một sát na đều soi rõ hết.

Rồi vào sau đêm chứng được đạo Cam Lộ, được pháp Cam Lộ. Con cũng như vậy, cùng với tất cả chúng sinh đồng chung thiện căn.

Nhờ thiện căn này nên đều được đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, đồng được trí nhất thiết trí giống như: Đức Phật Vô Lượng Thọ, Đức Phật Thắng Quang, Đức Phật Diệu Quang Đức Phật A Súc, Đức Phật Công Đức Thiện Quang, Đức Phật Sư Tử Quang Minh, Đức Phật Bách Quang Minh, Đức Phật Võng Quang Minh, Đức Phật Bảo Tướng, Đức Phật Bảo Viêm.

Đức Phật Viêm Quang Minh, Đức Phật Viêm Thịnh Quang Minh, Đức Phật An Cát Thượng Vương, Đức Phật Vi Diệu Thanh, Đức Phật Diệu Trang Nghiêm, Đức Phật Pháp Tràng, Đức Phật Thượng Thắng Thân, Đức Phật Biến Khả Ái Sắc, Đức Phật Quang Minh Biến Chiếu, Đức Phật Phạm Tịnh Vương, Đức Phật Thượng Tính.

Như vậy các Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri quá khứ, vị lai, hiện tại đều thị hiện ứng hóa được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, chuyển Vô Thượng Pháp Luân, vì muốn độ thoát, đem an lạc cho tất cả chúng sinh... nói rộng ra như trên. Con cũng vậy, đồng chung với chúng sinh được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, Chuyển Đại Pháp Luân... nói rộng ra như trên.

Này thiện nam tử! Nếu ông được Phẩm Diệt Nghiệp Chướng của Vua mọi thứ Kinh Kim Quang Minh này thì ông phải thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ chẳng quên, vì người khác giải nói rộng rãi thì gom được vô lượng vô số công đức rộng lớn.

Giống như tất cả chúng sinh sẵn có trong ba ngàn đại thiên Thế Giới, không có trước sau cùng một lúc, đều được thành tựu thân người, được thân người rồi, được đạo Duyên Giác.

Rồi nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đời cung kính lễ bái, tứ sự cúng dường từng vị Duyên Giác một. Mỗi mỗi đều cung cấp bảy báu nhiều như núi Tu Di để cúng dường. Như vậy rồi từng vị Duyên Giác một đều vào Niết Bàn, người ấy, khởi dựng Tháp bảy báu mà mỗi một Tháp đều bằng thất bảo.

Những gì là bảy báu?

Là: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não, xa cừ, báu xanh vàng v.v... những Tháp ấy cao rộng mười hai do tuần. Ở chỗ những Tháp này dùng những hoa hương tràng phan bảo cái... mỗi một thứ đồ cúng đều dùng để cúng dường.

Này thiện nam tử! Ý ông thế nào?

Thiện nam tử, thiện nữ nhân đó được phước nhiều lắm không?

Rất nhiều, thưa Đức Thế Tôn!

Đức Phật dạy rằng: Này thiện nam tử! Phẩm diệt nghiệp chướng của Vua mọi Kinh Điển Kim Quang Minh vi diệu này, ông phải thọ trì đọc tụng, nhớ nghĩ chẳng quên, vì người khác giải nói rộng rãi thì công đức thiện căn như đã nói trước đối với công đức tụ sở đắc sau của ông trăm phần chẳng bì kịp một. Dù trăm ngàn vạn ức phần tính toán, ví dụ đã chẳng thể bì kịp.

Vì sao vậy?

Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân đó trụ ở trong chính hạnh, khuyến thỉnh đấng Chánh Giác Thế Tôn của Cõi Phật mười phương chuyển pháp luân vô thượng, đều khiến cho Như Lai hoan hỷ khen ngợi.

Này thiện nam tử! Như lời ta nói, trong tất cả sự bố thí thì pháp thí là hơn hết, vậy nên này thiện nam tử.

Ở chỗ Tam Bảo thiết lễ cúng dường chẳng thể sánh được!

Thọ trì Tam Quy và các giới cấm chẳng thể sánh được!

Tam Bảo chẳng rỗng không chẳng thể sánh được!

Tam Bảo ba đời của tất cả Thế Giới mà khuyến thỉnh trụ thế lâu dài chẳng thể so sánh được. Ba đời tất cả Thế Giới ở vô lượng kiếp, khuyến thỉnh Như Lai nói chánh pháp thậm thâm, chẳng thể so sánh được.

Tất cả chúng sinh của tất cả Thế Giới tùy sức lực, tùy khả năng, tùy tấm lòng mà ở trong ba thừa khuyên phát tâm bồ đề, chẳng thể sánh được.

Ba đời chúng sinh của tất cả Thế Giới đều khiến cho họ không trở ngại, mau chóng được thành tựu công đức đủ đầy, chẳng thể sánh được.

Ba đời chúng sinh sẵn có của tất cả Thế Giới mà khuyên bảo khiến cho họ không ngăn ngại được tam bồ đề, chẳng thể sánh được.

Ba đời chúng sinh của tất cả Thế Giới mà khuyên bảo khiến cho họ ra khỏi bốn đường ác, chẳng thể sánh được.

Ba đời chúng sinh của tất cả Thế Giới mà khuyên bảo khiến cho họ diệt hết nghiệp ác sâu, chẳng thể sánh được.

Tất cả khổ não mà khuyên bảo khiến cho họ được giải thoát, chẳng thể so sánh được. Tất cả sợ hãi khốn khổ bức bách mà khuyên bảo khiến cho họ được giải thoát, chẳng thể sánh được. Ở trước Chư Phật ba đời, thiện căn công đức sẵn có của tất cả chúng sinh mà khuyên bảo khiến cho họ đều đem tùy hỷ, tự phát nguyện bồ đề ba đời, chẳng thể sánh được.

Ác hạnh, nhục mạ, đường nghiệp ác diệt trừ, tất cả thiện căn công đức đều nguyện nhiếp trì, sinh sống khắp nơi nơi đều khuyến thỉnh cung kính cúng dường tất cả Tam Bảo, khuyến thỉnh khắp đều thanh tịnh phước hạnh. 

Thành tựu viên mãn đạo tam bồ đề, khuyến thỉnh viên mãn đầy đủ sáu Ba la mật, khuyến thỉnh chuyển pháp luân vô thượng, khuyến thỉnh trụ vô lượng kiếp, nói vô lượng diệu pháp thậm thâm... chẳng thể so sánh được.

Lúc đó, Trời Đế Thích, Nữ Thần, Sông Hằng, vô lượng những Phạm Vương và Tứ Thiên Vương đứng dậy, đều trật áo vai phải, quỳ gối phải xuống dất, chắp tay đảnh lễ mà bạch Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Chúng con, tất cả được nghe Vua của mọi Kinh Kim Quang Minh này, nay phải thọ trì đọc tụng, vì người khác giải nói rộng rãi nên phải nương vào pháp này mà trụ.

Vì sao vậy?

Thưa Đức Thế Tôn! Vì chúng con muốn cầu Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác theo nghĩa này, đủ thứ tướng hạnh chánh pháp vậy. Lúc đó, Phạm Vương và Trời Đế Thích v.v... đều vân tập đến chỗ nghe pháp, dùng đủ thứ hoa Mạn Đà La mà tung lên trên Đức Phật.

Đất của ba ngàn đại thiên Thế Giới đều chấn động lớn, tất cả trống Trời và các âm nhạc chẳng tấu mà tự kêu lên, phóng ra ánh sáng màu vàng đầy cùng khắp Thế Giới, phát ra tiếng nói rằng, Kinh Điển vi diệu Kim Quang Minh này đem từ ân đến kịp khắp nơi, đủ thứ lợi ích, đủ thứ thiện căn Bồ Tát Tăng trưởng, diệt trừ các nghiệp chướng.

Đức Phật dạy rằng: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!

Vì sao vậy?

Này thiện nam tử! Vì ta nhớ từ thuở xưa đến đời này với hàng trăm ngàn A tăng kỳ kiếp, có đức Bảo Vương Đại Viêm Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri xuất hiện ở đời và trụ ở Thế Giới những sáu trăm tám mươi ức kiếp.

Lần tập hội đầu tiên của Ngài với trăm ngàn ức ức vạn chúng đều được A La Hán, các lậu đã hết, đủ sáu thần thông, tự tại vô ngại.

Lần tập hội thứ hai với chín mươi ngàn ức ức vạn chúng được A La Hán, các lậu đều hết, ba minh sáu thông đều được tự tại. Lần tập hội thứ ba với chín mươi tám ngàn ức ức vạn chúng đều được A La Hán, ba minh sáu thông tự tại vô ngại.

Lúc đó, Đức Như Lai Bảo vương Đại Viêm Chiếu cùng với những người Trời, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn và các nhân dân vì muốn độ thoát đem an lạc cho tất cả nên xuất hiện ở đời.

Này thiện nam tử! Ta vào lúc bấy giờ làm thân nữ nhân tên là Phước Bảo Quang Minh. Lần tập hội thứ ba, chỗ ngồi của ta ở hội gần gũi Đức Thế Tôn, ta thọ trì đọc tụng Kinh Kim Quang Minh này, vì người khác giải nói rộng rãi, được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Vậy nên Đức Thế Tôn đã vì ta thọ ký rằng: Người con gái Phước Bảo Quang Minh này, ở đời vị lai, sẽ được làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Sau khi xả bỏ thân nữ, từ đó đến nay qua khỏi bốn đường ác, sinh trong Cõi Trời người, hưởng thụ niềm vui thượng diệu, tám mươi bốn trăm ngàn lần làm Chuyển Luân Vương, đến ngày hôm nay được làm Phật mà danh xưng vang lừng đầy khắp Thế Giới.

Lúc này, hội chúng mới thấy Đức Như Lai Bảo Vương Đại Viêm Chiếu chuyển pháp luân vô thượng, nói pháp vi diệu. Từ cõi Ta Bà này đi về phương Đông kia, qua trăm ngàn hằng hà sa số Cõi Phật, có Thế Giới tên là Bảo Trang Nghiêm, hiện nay Đức Phật kia chưa Bát Niết Bàn còn hiện tại đang nói pháp vi diệu, hóa độ chúng sinh rộng rãi.

Lại nữa, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe danh hiệu của Đức Như Lai Bảo Vương Đại Viêm Chiếu này thì được bất thoái chuyển ở Bồ Tát địa đến Bát Niết Bàn.

Nếu có người nữ nghe danh hiệu của Đức Như Lai Bảo Vương Đại Viêm Chiếu thì đến lúc sắp mạng chung Đức Thế Tôn đi đến chỗ người ấy. Được thấy Đức Phật rồi thì họ rốt ráo chẳng lại thọ thân nữ.

Này thiện nam tử! Kinh Điển vi diệu Kim Quang Minh này có đủ thứ lợi ích, đủ thứ căn lành của Bồ Tát tăng trưởng, diệt trừ các nghiệp chướng.

Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di ở tại khắp nơi nơi vì người giảng nói Kinh Điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ở tại đất nước của họ đều được bốn thứ thiện căn công đức.

Những gì là bốn?

Một là Quốc Vương không có các bệnh tật, phiền não và tất cả tai ách.

Hai là thọ mạng lâu dài không có chướng ngại.

Ba là không có những oán địch binh chúng dũng kiện không ai có thể thắng.

Bốn là an ổn khoái lạc, diệu pháp thường hưng thịnh.

Vì sao vậy?

Vì vua người như vậy thì Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, chúng Dạ Xoa thường đến thủ hộ họ.

Này thiện nam tử! Có việc như vậy không?

Những vô lượng Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương và chúng Dạ Xoa đều cùng lúc đồng thanh đáp lời Đức Thế Tôn rằng: Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu ở tại đất nước có giảng nói Kinh này thì Quốc Vương các nước đó được chúng tôi, bốn Thiên Vương thường đến ủng hộ, đi đứng chung cùng với các Vua ấy.

Nếu có tất cả tai chướng, oán địch thì chúng con, bốn Thiên Vương đều có thể tiễn đưa đi hết. Nếu có bệnh tật, phiền não, những điều chẳng vừa ý chúng con đều khiến cho trừ khỏi, tăng trưởng thọ mạng. Đối với pháp cát tường, đối với pháp ái kính sức chúng con có thể khiến cho họ sinh lòng hoan hỷ.

Chúng con cũng có thể làm cho binh chúng của những vua ấy đều dũng kiện.

Đức Phật dạy rằng: Hay thay! Hay thay!

Này thiện nam tử! Đúng như lời ông nói! Các ông hãy tu hành!

Vì sao vậy?

Vì các Quốc Vương này theo đúng như pháp tu hành. Tất cả nhân dân theo Vua tu tập. Nếu có nhân dân có thể theo đúng như pháp tu hành thì các ông đều nhờ ơn mà sắc lực thắng lợi, cung điện sáng đẹp, quyến thuộc cường thịnh.

Các Đế Thích, Phạm Vương v.v... bạch Đức Phật rằng: Đúng vậy! Thưa Đức Thế Tôn!

Đức Phật dạy rằng: Ở đất nước này, nơi nơi giảng nói Kinh Điển vi diệu Kim Quang Minh thì đối với các Đại Thần, Tể Tướng của đất nước mong nhờ bốn thứ ân: 

Một là tương thân, hòa kính, ái niệm, tôn trọng, an nhẫn lẫn nhau. 

Hai là thường được lòng kính trọng của vị Nhân Vương Vua người, cũng được sự ái kính ủng hộ của Sa Môn, Bà La Môn, nước lớn, nước nhỏ.

Ba là khinh tài, trọng pháp, chẳng cầu thắng lợi, thanh danh lan truyền khắp, mọi người khen ngợi ngưỡng mộ.

Bốn là thọ mạng lâu dài, yên ổn khoái lạc.

Như vậy là bốn thứ ân đức. Nếu có đất nước tuyên nói Kinh này thì Sa Môn, Bà La Môn v.v... được bốn thứ công đức.

Những gì là bốn?

Một là y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược.

Hai là đều được an tâm ngồi thiền, đọc tụng.

Ba là nương vào núi rừng được trụ yên vui.

Bốn là nương vào tâm đều được thỏa mãn đầy đủ như ý.

Đó gọi là bốn công đức.

Nếu có đất nước giảng nói Kinh này thì tất cả nhân dân đều được giàu thịnh an vui, không có các dịch bệnh, khách thương buôn qua lại thu hoạch được nhiều của báu, đầy đủ bốn phước. Đó gọi là đủ thứ công đức lợi ích.

Lúc đó, Đế Thích, Phạm Vương, bốn Thiên Vương và đại chúng của hội này, bạch Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Như vậy ý nghĩa Kinh Điển này rất sâu, nếu đời hiện tại có Đức Như Lai, ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... thì trụ thế chưa diệt.

Nhưng nếu khi Kinh Điển này tận diệt thì chánh pháp cũng diệt!

Đức Phật dạy rằng: Vậy nên, này thiện nam tử! Đúng vậy! Tướng mạo của Kinh Kim Quang Minh này, một câu, một bài kệ, một phẩm, một bộ mà nếu một lòng nghe chân chính, một lòng gìn giữ chân chính, một lòng suy nghĩ chân chính, một lòng đọc tụng chân chính, một lòng vì người khác giảng nói rộng rãi thì được an vui mãi mãi.

***