Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh La Ma Già

PHẬT THUYẾT KINH LA MA GIÀ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Khất Phục Tần Thánh Kiên, Đời Tây Tấn
 

PHẦN MỘT
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, rừng Kỳ Đà, nước Xá Vệ, lầu gác trang nghiêm, giảng đường Thiện Thắng.

Cùng với Đại Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, có các Bồ Tát vị Bồ Tát: Quang Minh Tràng, Tu Di Sơn Tràng, Bảo Tràng, Vô Ngại Tràng, Hoa Tràng, Tịnh Tràng, Nhật Quang Tràng, Tịnh Chánh Tràng, Ly Trần Tràng, Thế Tịnh Tràng, Địa Oai Đức Tràng, Bảo Oai Đức, Đại Oai Đức, Kim Cang Trí Oai Đức, Tịnh Oai Đức, Pháp Nhật Oai Đức, Công Đức Sơn Oai Đức, Trí Diễn Oai Đức, Phổ Hiện Thắng Oai Đức, Trì Địa Tạng, như không Tạng, Liên Hoa Tạng, Bảo Tạng, Nhật Tạng, Công Đức Tịnh Tạng.

Pháp Ấn Tạng, Thế Tịnh Tạng, Bất Kiêu Mạn, Liên Hoa Thắng Tạng, Thiện Tịnh Nhãn, Thanh Tịnh Nhãn, Tịnh Nhãn Tạng, Vô Trước Nhãn, Phổ Tập Nhãn, Thiện Quán Nhãn, Ưu Bát La Hoa Nhãn, Kim Cang Nhãn, Bảo Nhãn, như không Nhãn, Thiên Nhãn, Phổ Nhãn, Thiên Quan, pháp giới Diễn Trí Thiên Quang, Đạo Tràng Thiên Quan, Chiên Đàn Quan Thiên Quan, Phật Tạng Thiên Quan, Sơn Dõng Thiên Quan, Thế Tịnh Thiên Quan, Oai Nghi Thiên Quan, Vô Năng Thắng, Chư Phật Sư Tử Tòa Phú Quán.

Phổ Pháp Giới Như Không Quang Quán, Phạm Thắng Phát, Long Thắng Kế, Phật Biến Hóa Diễm Kế, Nhất Thiết Nguyện Hải Ma Ni Kế, Như Lai Viên Quang Thù Kế, Như Không Đường Châu Bảo Kế, Như Lai Du Hý Châu Vương Võng Kế, Như Lai Pháp Luân Hương Kế, Nhất Thiết Tam Thế Hương Kế, Đại Quang, Ly Cấu Quang, Bảo Quang, Ty Trần Quang, Diễm Quang, Pháp Quang, Tịch Quang, Nhật Quang, Du Hý Quang, Thiên Quang, Công Đức Tướng Quang, Trí Tướng Diễm, Pháp Tướng Diễm, Thần Thông Diễm Tướng, Quang Diễm Tướng.

Hoa Tướng Diễm, Châu Tướng Diễm, bồ đề Diễm Tướng, Phạm Tướng Diễm, Phổ Quang Diễm Tướng, Phạm Âm, Hải Âm, Biện Tài Âm, Thế Vương Âm, Sơn Tướng Kích Âm, Nhất Thiết Pháp Giới Phổ Âm, Nhất Thiết Pháp Hải Lôi Âm, Điều Phục Ma Giới Âm, Đại Bi Vân Lôi Âm, Nhất Thiết Thế Gian Tịch Âm, Pháp Giới Tuệ, Trí Dõng, Công Đức Tu Di Dõng, Công Đức Nha Dõng, Xưng Dõng, Phổ Diễm Dõng, Đại từ Dõng, Trí Hải Dõng, Như Lai Chủng Tánh Dõng, Quang Thắng, Diệu Thắng, Dõng Thắng, Thế Tịnh Thắng, Pháp Thắng.

Nguyệt Thắng, Như Không Thắng, Bảo Thắng, Tịnh Thắng, Trí Thắng, Thọ Vương Ấn Thắng, Pháp Vương An, Sơn Vương An, Châu Vương An, Long Vương An, Tịch Vương An, Bất Động Vương An, Tiên Nhân Hiền Lực Vương An, Thắng Vương An, Tịch Hương, Vô Cực Hương, Địa Hương Âm, Hải Lôi Hương Âm, Pháp Phong Hương Âm, Như Không Hương Âm, Chúng Sanh Công Đức Hương Âm, Chúng Sanh Thiện Căn Hương Âm, Ma Giới Hương Âm, Trí Sơn Quang, Như Không Ý, Tịnh Ý, Vô Trước Ý, Giác Ngộ Ý, Tam Thế Diễm Ý, Quang Ý, Phổ Minh Ý, Pháp Giới Diễm Ý, các Đại Bồ Tát này có đủ năm trăm vị.

Tất cả các vị Bồ Tát này cùng tu hạnh Phổ Hiền và đều đầy đủ cảnh giới vô trước.

Các Ngài hiện khắp mười phương vô lượng Cõi Phật, thân nhiều vô cực, ở khắp trong chúng hội Chư Phật, từ lâu tu tập nơi Cõi Tịnh Nhãn Vô Ngại, tâm không ngưng nghỉ, tích tụ khắp tất cả công đức Chư Phật, nhất định thấu triệt nơi con đường giác ngộ, kết tụ vô lượng ánh sáng, trí thâm nhập tất cả pháp như biển, thường hành không vướng mắc, không chỗ thọ.

Tâm được tuệ lớn, thân trường thọ vô lượng vô số kiếp, tứ biện tài không cùng tận, trí tuệ như như không, không nương tựa, không một chút đắm trước. Tùy theo những gì chúng sanh ưa thích, như ý họ mà hiện sắc thân.

Mắt tịnh trong suốt không chướng ngại, như mặt trời trong như không, nơi tất cả pháp giới đều sáng suốt sung mãn.

Lại có năm trăm Thanh Văn đã thông đạt Tứ Đế từ lâu, thấy rõ căn tánh vô phân biệt, thâm nhập pháp tánh, lìa xa biển sanh tử, tùy thuận chúng Thánh đệ tử của Đức Như Lai. Tâm được giải thoát đối với các kiết sử.

Ở trong biển Phật Pháp tâm không nghi hoặc, cùng vô số Chư Thiên Vương tập họp và đã trồng các cội phước đức nơi Chư Phật trước.

Các Ngài khắp vì các chúng sanh luôn làm người bạn thân thiết. Đã từ lâu thọ giới, tâm đầy đủ các công đức, siêu việt hơn cả Trời người nhưng tâm không cao ngạo, tất cả phiền não đều đã chấm dứt.

Tâm và trí giải thoát như như không. Đối với Pháp Phật không còn nghi ngờ và thâm nhập biển trí tuệ Chư Phật. Tùy thuận oai nghi của các Bậc Thánh Như Lai, thực hành lời dạy của Chư Phật để thành tựu chúng sanh, ủng hộ hạt giống Phật Pháp để không đoạn tuyệt. Nhờ căn lành này mà Bồ Tát thường sanh vào ngôi nhà Phật Pháp, đạt được trí tuệ và pháp môn chân thật.

Bấy giờ Chư Bồ Tát, đại chúng Thanh Văn, Chư Thiên, Ma, Phạm và các Thần Tiên, mỗi vị cùng bà con quyến thuộc cung kính vây quanh, cảm kích suy nghĩ: Nghĩ đến công hạnh Đức Như Lai, nghĩ cảnh giới Phật, nghĩ sự biến hóa thần thông tự tại của Phật, nghĩ sự trì niệm Như Lai lực của Như Lai, nghĩ sự vô úy của Như Lai, nghĩ chỗ trú của Như Lai, nghĩ thiền định Như Lai, nghĩ nơi công đức thù thắng vi diệu Như Lai.

Nghĩ thân Như Lai, nghĩ trí tuệ vô bờ bến của Như Lai mà tất cả Trời người không thể đo lường, không thể phân biệt, không thể phô bày, không thể dùng kiến thức để biết, không thể nói bằng lời, cũng không thể nói rõ ràng như thật.

Ngoại trừ trì lực của Phật, năng lực tự tại của Phật, năng lực trí tuệ của Phật, năng lực biện tài của Phật, năng lực oai thần của Phật, năng lực tam muội của Phật, năng lực thần thông của Phật, năng lực bổn nguyện của Phật.

Năng lực căn lành quá khứ, năng lực thân cận thiện tri thức, năng lực tín tâm thanh tịnh, năng lực trụ phương tiện, năng lực ưa cầu căn lành thanh tịnh thù thắng vi diệu, năng lực tâm chánh trực giác ngộ sâu xa, nguyện lực nhất thiết trí.

Thế nên Đức Thế Tôn biết rõ những điều chúng sanh mong muốn, những niềm tin, những sự hiểu biết của họ mà tâm vẫn nhất như.

Đức Thế Tôn dùng âm thanh vô trước thức tỉnh tất cả biết đạo, nói đạo. Ngài khéo nói các địa vị và các công hạnh, các căn, những hạng người, những kính tin, những giải ngộ, những suy tư và biết cảnh giới bậc nhất thiết trí.

Ai ai cũng tư duy về công đức của Như Lai, cảm nguyện nói: Xưa kia, khi Đức Như Lai còn là Bồ Tát, hạnh nguyện thiện nghiệp. Ban đầu khi mới tu tập nhất thiết trí nguyện thù thắng Ba la mật, thị hiện các thần thông và địa vị Bồ Tát, trang nghiêm phương tiện, các âm hưởng siêu tuyệt, trang nghiêm hạnh Bồ Tát, sanh ra biển mãn túc, trang nghiêm bồ đề môn của Bồ Tát.

Thị hiện con đường tự tại của Bồ Tát, sanh ra biển trang nghiêm Bồ Tát, trang nghiêm Như Lai du hý thần thông, trang nghiêm Như Lai tự tại Pháp Luân, trang nghiêm Như Lai sát hai, trang nghiêm Như Lai hiện khắp mười phương điều phục chúng sanh mà không hiện thân tâm. Trụ nơi thành chánh pháp của Chư Như Lai, công đức thù thắng siêu việt, thị hiện rộng khắp các đạo. 

Như Lai Pháp Vương vì tất cả chúng sanh thị hiện các nẻo, dùng sức thần thông tự tại chiếu khắp ánh sáng thanh tịnh.

Như Lai là ruộng phước tối thượng của tất cả chúng sanh.

Như Lai vì tất cả chúng sanh nói công đức bố thí tam luân và giáo hóa tất cả muôn loài. Cúi xin Đức Như Lai thương xót chúng sanh mà hiển hiện đầy đủ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn biết tâm niệm của Chư Bồ Tát nên dùng thân đại bi, môn đại bi, tâm đại bi, tâm đại bi, bổn nguyện lực đại bi, tùy thuận đại bi rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như như không, nhập Sư Tử Vương Phấn tấn tam muội. Vì Ngài muốn làm cho tất cả chúng sanh vui thích pháp thanh tịnh.

Khi ấy nơi rừng Kỳ Đà, các lầu gác giảng đường bỗng nhiên sáng rực rỡ, nghiêm tịnh tỏa chiếu khắp nơi như trang nghiêm đất ấy. Kim Cang Cõi Phạm Thiên xen lẫn ngọc quý và các trân bảo trang hoàng tốt đẹp, mưa ngọc như ý và các hoa thơm đẹp, ánh sáng xuyên suốt tong ngoài cả khu rừng Kỳ Đà. Có cây Lưu Ly thân cành hoa quả được tạo thành bởi các báu.

Ánh sáng muôn màu quay vòng trở lại giữa khu rừng. Ngọc quý xinh đẹp dùng làm màn lưới đan kín với vàng Diêm Phù Đàn và giăng khắp bầu Trời, che kín phía trên.

Lại dùng những châu báu đặc sắc nhất để trang nghiêm lầu gác. Ngọc Ma Ni sáng rực rỡ làm trụ và ánh sáng chiếu thẳng xuyên suốt cả vườn rừng. Cửa vàng, rèm ngọc, lan can trân bảo, bốn phía đường đi do các châu báu tạo thành.

Ở riềm nhà chạy dọc hàng hiên cũng tỏa sáng và được trang trí bằng những hoa xinh đẹp kỳ diệu bằng Ma Ni Bảo Vương. Những giải lụa, tràng phan, bảo cái đầy khắp cõi hư không.

Nơi phía trước cửa sổ có cây báu hóa sanh, giống như rừng cây Sa La thẳng tắp tự nhiên, quả như linh báu phát ra các âm thanh vi diệu. Dưới gốc cây chảy ra dòng nước Lưu Ly thơm dịu, trong mát, lượn lờ chảy quanh tinh xá Kỳ Hoàn.

Nhờ thần lực Phật, thần lực bổn nguyện mà mười phương Thế Giới số nhiều như bụi không thể nghĩ bàn, vô số Cõi Phật thanh tịnh, vô lượng vô số đầy đủ những sự cúng dường đều hiện khắp nơi rừng Kỳ Đà.

Lại có sông Công Đức Hương, nước trong chảy vòng ven bờ cả nước. Có vô lượng hoa báu sanh ra theo dòng nước không thể cùng tận. Hoa nước có âm thanh đều nói hạnh Bồ Tát báo ứng, cây hoa nở sum suê tỏa hương mây phủ.

Trong những lọng hương có rất nhiều không thể nghĩ bàn những lầu gác mây, có vô số không thể nghĩ bàn những vòng hoa anh lạc đều thòng rủ xuống, vô số ngọc Ma Ni báu tự nhiên tuôn ra. Y phục mềm mịn và các tràng phan báu, tràng phan bảo cái khói hương đều đầy đủ.

Có vô số những đài hoa báu như mây xoay vòng trong như không. Tất cả những tràng phan và các lọng hoa, những tràng linh báu đều phát ra âm thanh vi diệu diễn nói tất cả danh hiệu Chư Phật, hiển hiện tướng pháp luân thanh tịnh.

Còn có Sư Tử Như Ý Châu Vương với âm thanh như biển rộng, giảng bổn nguyện hải môn của Chư Phật. Tất cả pháp giới Ma Ni bao vương tướng pháp chói sáng để làm trang nghiêm.

Khi ấy nơi rừng Kỳ Đà, trên không trung có bất khả tư nghì vô số các mây cây thơm. Biết bao nhiêu sự cúng dường đầy đủ như vậy, và các Cõi Phật, các việc trang nghiêm nhiều vô lượng vô biên không thể nói hết.

Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử từ Cõi nước phương Đông cầu thiện tri thức, dần dần đi đến cõi nước phương Nam và chuyển đến phương Tây, trông thấy trưởng giả Thiện Thắng nơi thành Khuất Đầu Ma.

Muốn đến thành kia, Thiện Tài Đồng Tử vừa lặn lội trên đường đi đến thành, vừa chánh định tư duy trong hiện tại, tâm không phân tán, luôn an trú nơi nhất tâm thiền định.

Tuy đang đi, Thiện Tài vẫn yêu thích chánh pháp, tâm không hối hận, không lui sụt, vẫn dõng mãnh tiến bước và không sợ con đường hiểm nạn. Luôn nghĩ đến thiện tri thức, tu đạo Chánh Giác. Vì đạt đạo an lạc nên thiện tâm không cùng tận.

Giữa đường, Thiện Tài suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để đạt được cảnh giới thù thắng?

Bây giờ ta phải làm sao để chóng đến chỗ thiện tri thức, để hỏi đạo Bồ Tát và hạnh tu Bồ Tát. Đối với thiện tri thức làm nhân duyên Phật Đà, được các Ba la mật thu nhiếp khắp tất cả, xa lìa các chướng ngại, vào pháp giới vô trước.

Khắp vì tất cả chúng sanh đoạn những nghiệp ác đạo để trừ bỏ tâm ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng. Diệt trừ tất cả bụi bặm phiền não, phá dẹp tất cả các lưới kiến chấp, hoàn thành mũi tên toàn thiện, đem cung từ bi để bảo vệ chánh pháp, thành tựu nhân quả.

Vì sao?

Nếu được gặp thiện tri thức, chắc chắn được thành tựu các công đức thiện. Thiện tri thức có khả năng là nhất thiết trí làm nền tảng vững chắc, thân tâm chánh định, nhan sắc không thay đổi. Cầu thiện tri thức oai nghi khả kính, không có tướng hung bạo.

Dần dần Thiện Tài đi đến thành Khuất Đầu Ma, thấy trưởng giả Thiện Thắng ở nơi lầu giảng đường thành kia. Đến nơi, Thiện Tài thấy mình như người lội trong biển rộng, không thấy đâu bờ bến.

Có trăm ngàn vạn ức các đại trưởng giả vây quanh, tất cả đều hoan hỷ ở hai bên trưởng giả Thiện Thắng, mỗi người đều ưa muốn nghe các pháp.

Như người hoa tiêu vì những người khách buôn mà nói về những nơi có châu báu trong biển, trưởng giả Thiện Thắng có tài phân biệt châu báu trong biển Phật Pháp và vì chúng sanh thuyết vô sở trước, vô sở phân biệt.

Khi ấy, Thiện Tài Đồng Tử cúi đầu kính lễ thưa: Bạch Đại Thánh! Từ lâu tôi đã phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác nhưng không biết thế nào là hành đạo Bồ Tát, tu hạnh Bồ Tát.

Trưởng Giả Thiện Thắng bảo Thiện Tài: Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Người đã phát tâm bồ đề nên mới có thể khéo hỏi về kho báu đại trí tuệ để đạt pháp nghĩa sâu xa này, để đạt tận tất cả hạt giống khổ não nghi hoặc.

Bây giờ Đồng Tử hỏi tôi để đến bờ nhất thiết trí, vì không có tâm phá hoại, hướng thẳng đại thừa, làm cho xa lìa tất cả sự sợ hãi nơi địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, thẳng nẻo Phật Đà, tu các pháp môn tam muội vắng lặng, khéo tu tất cả các hạnh Bồ Tát.

Nguyện du hý thần thông chuyển pháp luân bất thối, thanh tịnh các nghiệp đạo, nhanh chóng hồi hướng tâm nhất thiết trí. Đối với hạnh Bồ Tát tu hành như thật, vì đạo Bồ Tát nên Đồng Tử đến đây hỏi tôi.

Người thực hành hạnh này thấy khắp mười phương có ngăn ngại, biết rõ nhất thiết trí và pháp môn đối trị. Vì trang nghiêm tất cả hạnh Bồ Tát nên đến đây hỏi tôi.

Thiện nam tử! Tôi ở bờ biển nơi lầu giảng đường, tại thành Khuất Đầu Ma này, ngày đêm thường thuyết pháp môn đại từ đại bi Bồ Tát tịnh hạnh.

Thiện nam tử! Tôi ở Diêm Phù Đề này thấy các chúng sanh nghèo khổ, chắc muốn nhiều sự lợi ích, sau đó tôi sẽ vì họ thuyết nghĩa không sâu xa. Tùy theo sở nguyện của họ, tôi sẽ làm cho họ được đầy đủ.

Hoặc dùng thực phẩm để giúp đỡ họ, hoặc dùng tài pháp để giúp đỡ họ, hoặc dùng nghiệp công đức để giúp đỡ họ, hoặc dùng trí tuệ để giúp đỡ họ, hoặc dùng nghiệp căn lành chánh trực để giúp đỡ họ.

Nên đem căn Bồ Tát để giúp đỡ, tức dùng căn Bồ Tát để giúp đỡ họ. Nên đem phát tâm Bồ Tát để giúp đỡ, tức dùng tâm Bồ Tát để giúp đỡ họ.

Hoặc nên đem sự từ bỏ nghi hoặc để phát tâm bồ đề, tức dùng pháp từ bỏ nghi hoặc để giúp đỡ họ.

Hoặc nên đem pháp hoan hỷ để phát tâm Bồ Tát, tức dùng pháp hoan hỷ để giúp đỡ họ.

Hoặc nên dùng đại bi phát tâm Bồ Tát, tức dùng đại bi để giúp đỡ họ.

Hoặc nên dùng pháp trừ sanh lão bệnh tử ưu bi khổ não, vô thường, định để phát tâm Bồ Tát, tức dùng pháp khổ, không, vô thường để giúp đỡ họ.

Hoặc có chúng sanh nên đem tâm trụ nơi biển sanh tử không mệt mỏi, tức cùng ở nơi biển sanh tử để giúp đỡ họ.

Hoặc có chúng sanh nên dùng tứ nhiếp pháp phát tâm Bồ Tát, tức dùng tứ nhiếp pháp để giúp đỡ họ.

Hoặc nên vì tuệ nhất thiết trí biển công đức mà phát tâm Bồ Tát, tức dùng pháp tùy thuận biển trí tuệ công đức để giúp đỡ họ.

Hoặc có chúng sanh nên dùng tất cả đối trị môn biển chánh pháp của Chư Phật ba đời mà phát tâm Bồ Tát, tức dùng biển chánh pháp Chư Phật ba đời để giúp đỡ họ.

Thiện nam tử! Tôi dùng bao nhiêu pháp nhiếp thủ như vậy vì lợi ích cho chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh được pháp lợi lạc cho nên ở nơi bờ biển này.

Thiện nam tử! Tôi ở nơi bờ biển này biết khắp tất cả châu báu trong biển và chỗ sanh ra chúng. Biết cả nguồn gốc, tánh chất và giá trị quý hay tiện, cùng tướng trong sáng của châu báu. Biết ánh sáng báu, có thể phân biệt chính xác.

Biết rõ tất cả công xảo kỹ thuật. Biết rõ các cung điện khác nhau của tất cả các Rồng, Rồng chúa và Rồng con. Cũng có thể khéo diệt trừ các Rồng ưa đánh nhau và có tướng ác đáng sợ.

Biết rõ tất cả các thôn xóm, cung điện của La Sát chúa, có khả năng diệt trừ những La Sát đấu tranh, kiện tụng và mang đến sự sợ hãi. Khéo biết tất cả chỗ ở của những quỷ ly, mị, vọng, lượng và quỷ thần ác. Cũng có thể diệt trừ các nạn sóng biển vùi dập.

Biết tất cả màu nước và những dòng chảy của suối nguồn. Có khả năng khéo xem biết Thiên Văn và những sự biến quái tai nạn khác. Lưu ý ngày đêm, không một khoảnh khắc nhỏ nào đánh mất tâm thường cứu độ. Phân minh rõ ràng không sai khác một mảy may.

Biết giỏi những sách liệt kê toán số, chinh phục kẻ dưới, sử dụng tùy lúc.

Biết rõ tất cả các tướng thay đổi không dừng trong từng Sát Na, hoặc hợp hoặc tan, khéo biết tính toán các việc thế gian.

Thiện nam tử! Ông nay nên biết, tôi vì biết pháp môn thập minh của tất cả chúng sanh này nên an trú thanh tịnh bên bờ biển, không sợ hãi và làm cho các chúng sanh kia đều được an ổn. Tôi thường dùng chánh pháp để an ủi, vỗ về họ.

Nếu trong Diêm Phù Đề có các thương gia buôn bán, muốn đến biển lớn tìm cầu trân bảo mà xưng tên tôi thì được rất nhiều trân bảo và an ổn may mắn trở về. Nếu có chúng sanh được nghe tên tôi thì những bụi bặm của thân tâm cho đến bụi bặm nơi y phục, vĩnh viễn được tiêu trừ, huống gì phiền não.

Nếu có chúng sanh mắt nhìn thấy tôi, thường được pháp hỷ vô thượng thanh tịnh, nghe pháp không chán, thân tâm vui vẻ an lạc nhờ được pháp này. Tôi thường khắp vì những nỗi khổ nội tâm của chúng sanh trong tất cả Diêm Phù Đề mà mưa trận mưa pháp lớn, làm cho họ được an vui.

Nếu có chúng sanh nghe tôi thuyết pháp ắt được an ổn vượt qua biển khổ sanh tử, thoát khỏi sự sợ hãi, chắc chắn được an vui nơi biển nhất thiết trí, vĩnh viễn xa lìa khát ái, không còn lo âu hoạn nạn, thường trụ nơi biển tam thế minh giải thoát.

Thiện nam tử! Ông nay nên biết, tôi có thể hòa nhập vào tất cả tâm chúng sanh và tâm tôi luôn hành đạo trong biển, làm cho chúng sanh kia tu nghiệp Tịnh Độ. Tôi biết khắp tất cả mười phương biển tịnh quốc, tùy ý vãng sanh, được nghiệp vô ngại.

Tôi có thể trang nghiêm tất cả biển tịnh nghiệp căn, có thể thanh tịnh tất cả biển chúng sanh hạnh, làm cho họ được ở nơi biển nghỉ ngơi an lạc, vắng lặng, đại an.

Thiện nam tử! Tôi dùng sự biết đại từ bi và hỷ xả này để đối trị diệt tướng kích âm thanh pháp môn của Bồ Tát Hỷ Tràng cùng Chư Đại Bồ Tát, các Ngài đã thành tựu vô lượng các công đức biển trí tuệ, khéo hay phân biệt tất cả biển Thế Giới hạnh, đoạn trừ tất cả biển nghiệp phiền não, thành tựu tất cả các biển pháp giới, bao gồm tất cả các chúng sanh và biển Thế Giới.

Nhập vào tất cả biển trí tuệ cao siêu, không bao giờ bỏ tất cả biển chúng sanh. Tâm ấy như đất, khéo hay tùy thuận tất cả biển chúng sanh, khắp vì giáo hóa tất cả biển chúng sanh, khéo tùy thuận biển oai nghi của tất cả chúng sanh.

Chư Đại Bồ Tát hành pháp sâu xa như vậy, tôi phải làm thế nào để có thể biết, có thể nói về hạnh công đức kia?

Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử cúi đầu đảnh lễ, nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi từ tạ trưởng giả Thiện Thắng, ra đi về hướng Tây.

Trưởng Giả Thiện Thắng ngợi khen: Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử, ông hãy nên chánh niệm tư duy thiền định tam muội. Từ đây, Đồng Tử đi dần về phía Tây, hướng đến thành Danh Văn, qua khỏi thành này đi tiếp sẽ có nước tên Nan Nhẫn, thành tên Ca Lăng Đề.

Cách thành này không xa có rừng công đức, trong khu rừng ấy có Tỳ Kheo Ni tên Sư Tử Phấn Tấn, thân màu vàng ròng, đoan nghiêm đệ nhất.

Đồng Tử hãy đến chỗ vị Tỳ Kheo Ni ấy để hỏi về hạnh Bồ Tát, hỏi về giới Bồ Tát, hỏi các pháp môn.

Khi ấy Thiện Tài Đồng Tử nhẹ nhàng dời bước, từ giã lui ra, dần dần đi đến rừng công đức, ven bờ suối Nhật Quang.

Đồng Tử thấy vị Tỳ Kheo Ni đang ngồi đoan nghiêm thiền định, có năm trăm đồng nữ tướng mạo xinh đẹp làm thị giả, và có năm trăm Đồng Tử bảo vệ các đồng nữ kia, cùng trăm ngàn thiên nữ đứng hầu hai bên.

Bên bờ suối Nhật Quang có một vườn cây tên Vương Viên. Vào trong vườn này thấy có một đại thọ tên Nhật Nguyệt Quang, phóng ra ánh sáng chiếu tỏa hàng trăm do tuần để trang nghiêm vườn cây, hóa thành lầu gác trang trí bằng bảy báu, trên có ánh sáng.

Lại thấy cây đại thọ tên Phổ Quang Minh, cành lá nâng cao phủ khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới, hình dáng như cây lọng, chảy ra các dòng nước có ánh sáng thanh tịnh.

Lại thấy rừng báu tên Hoa Tạng, cây vươn cao vô cực, hoa nở như Thiên Thọ Vương, có ánh sáng rực rỡ như Cung Điện Trời, màu trắng muốt đẹp như núi Tuyết.

Lại thấy cây đại thọ tên Mỹ Vị, hoa vàng, quả vàng, hương thơm êm dịu, rất thích hợp lòng người.

Lại thấy một cây tên Thế Tịnh Quang, màu cây sáng chói, vô lượng vô biên ngọc Chiên Đàn dùng làm trái cây. Có A tăng kỳ các lưới ngọc đan nhau, lưới phủ trên cây giống như Cung Điện Trời.

Lại thấy một cây tên Thiên Y, thường xuất vô lượng A tăng kỳ vô số các y phục báu.

Lại thấy các cây tên Âm Nhạc, cành lá va chạm nhau phát ra tiếng du dương như Phạm âm.

Lại thấy các cây tên Phổ Hương Trang Nghiêm, mùi hương thấm nhuần khắp nơi không có chướng ngại.

Trong vườn rừng lại thấy ao, suối, lưới sáng bảy báu che phủ lên trên. Bốn phía ao có bốn dòng kênh, chia làm tám chi liên tục rót vào tám thứ nước công đức trong suốt tràn đầy.

Bùn dưới đáy ao bằng bột Ngưu Đầu Chiên Đàn, các châu báu trang nghiêm, cát bằng hoàng kim, phun lên nước thơm này. Tiếng suối reo như nhạc Trời làm vui đẹp lòng chúng sanh.

Các châu báu được dùng làm lan can. Bên bờ ao được trải cát vàng, thường phóng ra các thứ ánh sáng muôn màu lấp lánh. Hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen xanh chen nhau đua nở trên mặt nước.

Có các cây báu thành hàng thẳng tắp trang hoàng chung quanh bờ ao, dưới mỗi cây này có Tòa Sư Tử trải vô lượng châu báu, vô lượng y Trời. Những trân bảo quý đẹp dùng làm đồ trang sức, đốt hương vô giá xông Tòa Sư Tử.

Các màn, trướng thơm, trắng sạch tươi sáng, lưới báu phủ lên trên, rủ xuống những phong linh vàng phát ra tiếng hòa diệu.

Lại có vô lượng những giường, màn báu chung quanh tòa cao, dưới mỗi một gốc cây cũng lại như vậy.

Ở giữa những cây đại thọ có vô lượng Tòa Sư Tử Liên Hoa bảo tàng.

Lại ở giữa cây có Tòa chúng hương tàng. Và ở giữa cây có các thứ Tòa hương vân tàng. Và ở giữa cây có Tòa Sư Tử bảo tụ tàng. Và ở giữa cây có Tòa nhất thiết thế gian phổ quang Ma Ni thanh tịnh tàng.

Và ở giữa cây có Tòa nhạo kiến sư tử bảo tàng. Vô lượng hương vi diệu dùng làm tọa cụ. Nơi những Tòa báu này, mỗi một Tòa đều có vô lượng trăm ngàn những sàn Tòa nhỏ để chung quanh. Mỗi một Tòa nhỏ dùng vô lượng châu báu để trang nghiêm.

Trên mỗi một Tòa có vô lượng ngọc quý đầy đủ tất cả như đại bảo châu. Dưới mỗi một Tòa có ánh sáng thù thắng chiếu khắp Vương Viên và rừng Nhật Quang. Trong ánh sáng ấy, mưa y báu và những vàng bạc châu báu mềm mại khả ái dùng để trải trên mặt đất.

Ví như biển lớn đều đầy đủ các trân bảo. Nơi suối Nhật Quang này có nước thơm Chiên Đàn, bước nhẹ thì gót chân lún xuống tùy theo sự vận chuyển của chân. Khi nhấc chân lên, nó trở lại hoàn toàn như cũ.

Ở trong ao có nhiều loại chim đẹp như: chim hồng, chim nhạn, uyên ương, chim thúy, khổng tước. Mỗi loại chim tự quay lại nhìn bóng mình trong nước để cùng hót lên âm thanh êm dịu, hài hòa. Chúng bay lượn trong không trung và tụ tập nơi rừng Chiên Đàn, tại rừng Vương Viên này.

Nước suối Nhật Quang sanh ra vô tận loại hoa thanh tịnh có hương thơm vô giá. Tung những loại hoa này lên không gian, nó vượt xa hơn ao rừng Hỷ Kiến của Trời Đế Thích. Cây báu, phong linh báu, cành lá hoa quả không đánh tự kêu, phát ra âm thanh tuyệt diệu.

Có các Thiên Nữ đoan trang xinh đẹp như Hoàng Hậu Trời Tự Tại. Rừng Vương Viên này sáng tỏ gấp bội, vượt hơn các Cung Trời. Các Thiên Nữ này trỗi nhạc, ca hát vang khắp Vương Viên, làm hoan hỷ tất cả các vị Trời và ở giữa cây có những y phục trổ ra.

Ở bốn bên rừng có Tứ Thiên Vương, tất cả đều là đại quyền Bồ Tát thống lãnh bốn binh chủng để làm bảo vệ. Các loại lâu đài, lọng hoa, gấm Trời và các Cung Điện, nhà cửa cũng có binh chúng để bảo vệ mọi người và vườn này trang nghiêm giống như vườn Hoan Hỷ xinh đẹp rực rỡ của Trời Đế Thích.

Khắp nơi đều sạch đẹp, nhìn mãi không chán, hơn là giảng đường Thiện Tịnh Trang Nghiêm của Trời Đại Phạm. Với quả báo của Trời người trong ba cõi không thể sánh bằng.

Vô lượng Phạm vương với mắt sáng suốt do quả báo thanh tịnh cũng không thể thấy hết rừng công đức và suối Nhật Quang này.

Giả sử tập hợp cả trăm ngàn Phạm cung cũng không sánh bằng rừng và suối kia được. Vì nó xinh đẹp kỳ diệu không thể nói hết.

Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử thấy biết bao ánh sáng vi diệu trang nghiêm vườn rừng này, đều là bổn nghiệp tịnh hạnh của Bồ Tát. Công đức chân thật này là sự thành tựu của nguyện lực và căn lành, siêu tuyệt quả báo tam giới thế gian.

Bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp, Bồ Tát đã ở nơi Chư Như Lai trồng các cội công đức, không đắm trước thế gian, xa lìa đoàn thực cũng như nhà ảo thuật thấy các sắc tượng.

Tu tất cả những nghiệp thanh tịnh, không đắm trước nơi hạnh thù thắng, không ai có thể phá hoại được.

Tỳ Kheo Ni Sư Tử Phấn Tấn là người hiểu rõ các pháp tánh, tướng như huyễn hóa, vốn tu công đức, trưởng dưỡng căn lành, thành tựu ngũ lực mà không có chỗ đắm trước.

Rừng Vương Viên này rộng mênh mông và trang nghiêm thanh tịnh, có thể dung chứa tất cả Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ca Lâu La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người… trong khắp tam thiên Đại Thiên Thế Giới, tất cả đều vân tập vào Vương Viên này mà vẫn không chật chội.

Vì sao?

Vì tất cả đều nhờ sức oai thần của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Phấn Tấn. Bất khả tư nghì thần thông biến hóa đều từ bổn nguyện của Bồ Tát phát sanh.

Thiện Tài Đồng Tử thấy tất cả những Tòa Sư Tử dưới các cây báu, trên mỗi một Tòa có một Tỳ Kheo Ni tên Sư Tử Phấn Tấn đoan nghiêm thù thắng vi diệu, oai nghi đỉnh đạc, tâm lành vắng lặng, điều phục các căn như đại long tượng, như ngọc Như Ý làm vừa lòng tất cả các ước nguyện, tâm không vướng mắc như hoa sen, như sư tử chúa oai hùng chinh phục muôn thú.

Vì an trụ bất động nên được giới vô tướng. Tâm ấy thanh tịnh tiêu trừ phiền não cũng như mùi hương hạng nhất có thể diệt hết những mùi hôi. Như đại Dược Vương và những thuốc tốt nhất chữa trị được các căn bệnh.

Như vua lương dược, người có thiện tâm được gặp có thể trừ được các bệnh, ngược lại, người bất thiện gặp thuốc hay trở thành độc hại. Đại Bồ Tát cũng lại như vậy, vì người có duyên hay vô duyên thuyết pháp vi diệu.

Người có duyên thấy thân ta, nghe tiếng ta liền được vô ngại Đà La Ni, còn chúng sanh vô duyên thì tăng thêm hạnh ác, chúng sanh vô ký thì được thiện tâm như Trời Ba Lâu Na trang nghiêm vi diệu, ban bố khắp thế gian đều được thanh tịnh, trưởng dưỡng căn lành như ruộng phước tốt.

Thiện Tài Đồng Tử thấy những đại chúng trên Tòa này như là Trời Tịnh Cư và quyến thuộc vây quanh, thấy Trời Ma Hê Thủ La và quyến thuộc vây quanh.

Những thiên chúng này nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Phấn Tấn mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni vì các chúng Trời Tịnh Cư và chúng Trời Ma Hê Thủ La mà thuyết pháp môn vô tận, pháp hạnh vô thọ.

Và thấy nơi Tòa này có Dục Lạc Thiên Tử cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chiêm ngưỡng, nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn phổ minh âm thanh danh văn thanh tịnh.

Và thấy nơi Tòa này Tự Tại Thiên Vương, Thiên Tử, Thiên Nữ, quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni kia mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni vì chúng Trời Tự Tại thuyết pháp môn Bồ Tát danh tự tại thanh tịnh.

Và thầy nơi Tòa này Hóa Lạc Thiên Vương, Thiên Tử, Thiên Nữ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn nhất thiết pháp thanh tịnh trang nghiêm.

Và thấy nơi Tòa này Đâu Suất Thiên Vương, Thiên Tử, Thiên Nữ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn an lạc tâm tàng toàn phục tự tại vô ngại Đà La Ni.

Và thấy nơi Tòa này Dạ Ma Thiên Vương cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn xuất sanh vô lượng thanh tịnh thắng diệu trang nghiêm.

Và thấy nơi Tòa này Thích Đề Hoàn Nhân cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn bất tịnh nhẫn yểm ly vô thường khổ không vô ngã.

Và thấy nơi Tòa này Giải Không Sa Già La Long Vương, Thập Quang Minh Long Vương… cùng quyến thuộc vây quanh.

Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương… cùng quyến thuộc vây quanh. Ma Na Tư Long Vương, Y Na Bàn Na Long Vương, A Nậu Đạt Đa Long Vương… mỗi Long Vương lại cùng với Long Tử, Long Nữ và quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời.

Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn nhất thiết cứu hộ thiện xảo phương tiện.

Và thấy nơi Tòa này Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương, Lãnh Càn Thát Bà… cùng bà con nam nữ lớn nhỏ nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn hoan hỷ vô tận.

Và thấy nơi Tòa này Ma Hầu La Già, A Tu La vương cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vì Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn pháp giới trang nghiêm minh tuệ tốc tật.

Và thấy nơi Tòa này Đại Thiên Thế Lực Ca Lầu La Vương cùng với bà con nam nữ lớn nhỏ vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn độ sanh tử hải vô sở úy.

Và thấy nơi Tòa này Thiện Âm Khẩn Na La Vương cùng bà con nam nữ lớn nhỏ vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn bản hạnh thanh tịnh vô trước.

Và thấy nơi Tòa này Kim Giác Vân Kết Ma Hầu La Già Vương cùng với bà con nam nữ lớn nhỏ vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn Chư Phật hoan hỷ phổ tập.

Và thấy nơi Tòa này vô lượng nam nữ, đồng nam, đồng nữ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn vô thắng.

Và thấy nơi Tòa này các La Sát Vương thường ăn tinh khí chúng sanh. Họ cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn phổ từ bi quán.

Và thấy nơi Tòa này, tất cả chúng Thanh Văn xuất gia đều vân tập đến đông đủ nơi hội chúng. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn trí tuệ quang minh thắng.

Và thấy nơi Tòa này những chúng xuất gia thích pháp Duyên Giác đều đến nơi hội chúng đông đủ. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn tịnh minh Phật công đức.

Và thấy chúng xuất gia thích Pháp Đại Thừa, họ cùng hàng quyến thuộc vây quanh đến ngồi đông đủ nơi hội chúng. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn phổ môn trí tuệ quang minh tam muội.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát mới phát tâm cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn nhất thiết Chư Phật đại nguyện tụ.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Nhị Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn như không minh tinh la ma ca tam muội.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Tam Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn trang nghiêm tịch tĩnh.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Tứ Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn nhất thiết chủng trí thế lực cảnh giới.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Ngũ Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn phổ tập tinh hoa tạng.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Lục Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn xuất thế thanh tịnh tạng.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Thất Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn phổ y chỉ thanh tịnh Địa Tạng.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Bát Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn pháp giới Tỳ La Ma Già phổ biến pháp thân hóa hiện nhất thiết như không cảnh giới.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Cửu Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn vô ngại vô trước thanh tịnh lực trang nghiêm.

Và thấy nơi Tòa này Bồ Tát Thập Địa cùng hàng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho họ nghe pháp môn viên mãn vô chướng ngại tịnh danh tam muội.

Và thấy nơi Tòa này Kim Cang lực sĩ cùng quyến thuộc vây quanh, nhất tâm chăm chú nhìn vị Tỳ Kheo Ni mắt không tạm rời. Vị Tỳ Kheo Ni thuyết cho ho nghe pháp môn trí tuệ trang nghiêm Na La Diên Kim Cang tướng tam muội.

Tất cả đại chúng như vậy, tất cả chúng sanh, tất cả các cảnh giới, những người có duyên được hóa độ cùng tất cả bà con của họ đã trồng căn lành, tùy theo những điều mong muốn, những sự thực hành những đạo quả và ưa thích nghe nhiều giáo Pháp của các chúng sanh.

Vì nuôi lớn căn lành, vì tăng trưởng căn lành, vì trang nghiêm căn lành, tùy theo chỗ thích ứng của họ mà Bồ Tát khai thị, nói rõ tuệ giác vô thượng. Bồ Tát chuyển bánh xe pháp bất thối chuyển, làm cho chúng sanh đạt bất thối chuyển.

Vì sao?

Vì đây đều do vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Phấn Tấn thành tựu pháp môn phổ nhãn trí tuệ quang minh xả ly, thành tựu pháp môn nhất thiết Chư Phật pháp giới vô tướng thanh tịnh, pháp giới thông đạt vô ngại.

Vị Tỳ Kheo Ni này thành tựu pháp môn vô trước vô ngại thanh tịnh bí tàng, thành tựu pháp môn viên mãn bất khả tư nghì tịnh tạng, thành tựu pháp môn thanh tịnh phổ hỷ kiến tàng, thành tựu mười vạn ức không thể tính đếm bát nhã Ba la mật, thành tựu Phổ nhãn bát nhã Ba la mật, thành tựu tất cả pháp giới Phật không thể hoại bát nhã Ba la mật.

Bên dòng suối Nhật Quang nơi rừng Vương Viên này, tất cả đại chúng Đại Bồ Tát… Từ lâu họ đều đã gieo trồng căn lành, có duyên được vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Phấn Tấn thuyết pháp giáo hóa nên đạt đến đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Tâm họ hoàn toàn vắng lặng, đắc bất thối chuyển.

Khi ấy, Thiện Tài Đồng Tử biết Tỳ Kheo Ni Sư Tử Phấn Tấn từ lâu xa đã thành tựu hết tất cả các pháp môn như vậy nên mới hiện khắp các sắc thân để tự trang nghiêm và làm cho dòng suối Nhật Quang, rừng Vương Viên, các cây báu và các Tòa Sư Tử đều hiện những việc vô cùng hy hữu.

Đầy đủ tất cả vườn rừng, đường kinh hành hay thiền định và những thứ cần dùng, vật báu, giường, màn… Đồng Tử thấy các đại chúng và tất cả bà con của họ đều ngồi trong vườn rừng ấy. Nhờ thần lực công đức của Bồ Tát nên đầy đủ tất cả, có tám thứ âm thanh để thuyết các pháp vi diệu.

Thiện Tài Đồng Tử thấy những sự thể vô cùng kỳ lạ, hy hữu không thể nghĩ bàn. Lại nghe tám thứ âm thanh vi diệu và nghe bất khả tư nghì âm thanh vi diệu thanh tịnh, ca ngợi tuyên dương vô lượng pháp môn pháp vân.

Nhờ pháp môn này, Thiện Tài Đồng Tử thân tâm được thấm nhuần, êm dịu. Pháp môn này gọi là chánh pháp đối trị vô tỉ.

Đồng Tử được pháp môn này rồi, thân tâm hoan hỷ, hoát nhiên đại ngộ, thành tựu tất cả các đại pháp môn, cung kính chắp tay nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi đến trước đảnh lễ.

Trong khoảnh khắc chưa ngẩng đầu lên, Đồng Tử thấy vị Tỳ Kheo Ni đã biến khắp tất cả Tòa báu Sư Tử, phóng vô lượng ánh sáng sắc vàng rực rỡ, tỏa chiếu khắp rừng Vương Viên và ngàn cây nội cỏ, giống như mây sáng.

Thần lực ánh sáng này làm cho cây cỏ đều xoay tròn về bên phải vô số vòng. Rừng cây hàng hàng tiếp nối nhau phóng ánh sáng tỏa chiếu vị Tỳ Kheo Ni.

***