Kinh Đại thừa

Bộ Pháp Hoa

PHẬT THUYẾT KINH LẦU

CÁC CHÁNH PHÁP CAM LỒ CỔ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Thế Tôn ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong nước Xá Vệ. Bấy giờ, Tôn Giả A Nan Đà phát khởi chân tâm đến chỗ Thế Tôn.

Đến nơi, Tôn Giả đầu đảnh lễ sát chân Phật, kính lễ xong đứng sang một bên, rồi Tôn Giả A Nan Đà bạch với Phật: Kinh thưa Thế Tôn! Thế nào là gieo trồng thiện căn thanh tịnh?

Thế nào là Mạn Nã La?

Thế nào là quy y thọ trì học giới?

Thế nào là chắp tay cúng kính Như Lai và sẽ thành thiện nghiệp gì?

Thưa Thế Tôn! Thế nào là luân hồi thiện căn bất diệt?

Khi nghiệp tận đắc được Niết Bàn là sao?

Và làm tượng Như Lai được công đức thế nào?

Phật bảo: Này A Nan Đà! Hiện tại đối với năm đức phải tu hành gìn giữ cho thanh tịnh. Lại nói lấy những gì mà gọi là phát tự tâm, phát tha tâm để bậc Thánh Hiền được tâm hoan hỷ, thiện nghiệp cao vời, sở cầu đều được.

Sau khi thân hoại mạng chung sinh về Thiện Thệ Thiên?

Này A Nan Đà! Nếu có người phát tâm đối với Phật nên chí thành cúng dường, làm Man Nã La bốn phương, thì ta nói người đó đời đương lai ở Bắc Cô Lô Châu làm chủ phú quí, sau khi thân hoại mạng chung sinh về cung Trời Đao Lợi.

Này A Nan Đà! Nếu có người phát tâm với Phật nên chí thành cúng dường, làm Man Nã La như hình bán nguyệt, thì ta nói người đó đời đương lai ở Đông thắng thân châu làm chủ phú quí. Sau khi chết sinh về Dạ Ma Thiên.

Này A Nan Đà! Nếu có người phát tâm đối với Phật nên chí thành cúng dường, làm Mạn Nã La hình tròn, thì ta nói người đó đời đương lai ở Tây Ngưu Hoá Châu làm chủ giàu sang. Sau khi thân hoại mạng chung sinh về Cung Trời Đâu Suất.

Này A Nan Đà! Nếu có người phát tâm vì Phật mà chí thành cúng dường, làm Mạn Nã La hình tròn, thì ta nói người đó đời đương lai ở Nam Diêm Phù Châu làm chủ phú quí. Sau khi thân hoại mạng chung sinh về Trời Hoá Lạc.

Này A Nan Đà! Nếu quy y Phật, Pháp, Tăng và hộ trì tịnh giới, thì ta nói thiện căn, phước đức người đó vô lượng vô biên. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác tân Niết Bàn tế cũng không thể so sánh được.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan Đà: Tuỳ ý ông nên biết hoa sen hồng kia mềm mại không dơ. Cây Vô Ưu lá sắc đỏ vi diệu. Lưỡi ta cũng như thế, dài rộng cả diện môn cho đến mái tóc như ông đã thấy.

Này A Nan Đà! Người nào nói vọng ngữ, nói thêu dệt, ác khẩu, hai lưỡi làm gì có được điều đó?

Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác duy chỉ nói chân thật mới có tướng lưỡi như vậy.

Này A Nan Đà! Nếu có người đem thân mạng quy y, chắp tay, đảnh lễ Thế Tôn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì hữu tình làm lễ quy y đó được ta cứu độ.

Vì sao?

pháp giới Như Lai quyết định vậy. Nếu có người thành tâm quyết định chắp tay lễ bái và bố thí, lại có người như rửa tay, rửa sạch những đồ đựng trong khoảnh khắc thời gian này, mà phát tâm lợi sinh và nguyện hết thảy tất cả chúng sanh được an lạc, thì ta nói người đó đã mở cửa phước, đóng đường ác tránh khỏi ba kiếp.

Thế nào là ba kiếp?

Là kiếp đao binh, kiếp bệnh tật, kiếp đói khổ.

Này A Nan Đà! Lại có người trong một ngày gìn giữ, xa lìa giới sát sinh, thì người ấy không sinh vào kiếp đao binh. Nếu lấy ván sữa sống, hay chín, mật, dầu, đường phèn cúng dường cho Chúng Tăng, thì người ấy không sinh vào kiếp bịnh tật. Nếu lấy một bát thức ăn, nước uống cúng dường Chúng Tăng, thì người ấy sẽ không sinh vào kiếp đói khổ.

Này A Nan Đà! Có ba thiện căn vô tận vô biên trong chốn luôn hồi cũng không diệt, mà còn đến được Niết Bàn.

Những gì là ba?

Nghĩa là đối với Như Lai mà gieo trồng thiện căn, thì vô tận vô biên trong chốn luôn hồi cũng không diệt tận, tương lai chắc chắn đắc quả vị Niết Bàn.

Đối với Pháp, Tăng mà trồng thiện căn cũng vô tận vô biên trong cõi luôn hồi không diệt tận tương lai chắc chắn đắc quả vị Niết Bàn.

Bấy giờ, Thế Tôn dùng công đức của mình bảo A Nan Đà: Ông có thấy Châu Nam Diêm Phù kia không?

Dạ, bạch Thế Tôn con đã thấy.

Này A Nan Đà! Nếu có thiện nam, tín nữ nào lấy bảy báu làm Nam Diêm Phù Châu vòng tròn dài rộng đúng bảy ngàn do tuần, đem bố thí, cúng dường tứ phương Tăng và Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho đến Duyên Giác…

Nếu có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Niết Bàn, và sau khi Niết Bàn lấy khối đất bàn làm Tháp lớn như quả A Ma Lặc quả xoài.

Trên mũi Tháp làm hình căm bánh xe Pháp Luân cỡ như kim, tạo cái lộng để che hình giống là táo, rồi bên trong tôn Tượng Phật như lúa mạch, an táng Xá Lợi như hạt cải trắng ở phía dưới, thì ta nói phước đức người này rộng lớn hơn những người đã nói ở trước.

A Nan Đà! Đó là Nam Diêm Phù Châu mà ông vừa biết.

Này A Nan Đà! Nếu có thiện nam, tín nữ nào lấy bảy báu làm Đông thắng thân châu, xung quanh bốn mặt làm như hình bán nguyệt, chiều dài rộng đúng tám ngàn do tuần, bố thí cúng dường tứ phương Chúng Tăng và Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho đến Duyên Giác, còn như nếu có Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Niết Bàn hay sau Niết Bàn.

Lấy khối đất bùn làm Tháp như quả Am Ma Lặc, trên mũi Tháp tạo hình căm bánh xe Pháp Luân, nhọn cỡ như kim, làm cái lộng che hình lá táo, bên trong an trí Tượng Phật bằng lúa mạch.

An táng Xá Lợi như hạt cải trắng phía dưới, thì ta nói phước đức người này rộng lớn hơn những người đã nói ở trước. A Nan Đà, đó là Nam Diêm Phù châu và Đông Thắng Thân châu mà ông vừa biết.

Này A Nan Đà! Nếu có thiện nam, tín nữ nào có lòng tin lấy bảy báu làm Tây Ngưu Hoá Châu tròn như mặt Trăng, dài rộng đúng chín ngàn Do Tuần, đem cái đó cúng dường tứ phương Chúng Tăng và Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho đến Duyên Giác.

Nếu có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Niết Bàn, hay sau khi Niết Bàn lấy khối đất bùn làm Tháp như quả Am Ma Lặc, mũi Tháp nhọn như kim hình căm xe Pháp Luân, trên có lộng che như lá táo, bên trong an trí Tượng Phật bằng lúa mạch, phía trước an táng Xá Lợi như hạt cải trắng, thì ta nói phước đức người này quảng đại hơn những người trước.

A Nan Đà, đó là Nam Diêm Phù Châu, Đông Thắng Thân Châu, Tây Ngưu Hoá Châu mà ông đã biết.

Này A Nan Đà! Nếu có thiện nam, tín nữ nào lấy bảy báu làm Bắc câu lô châu tất cả bốn mặt đều bằng mười ngàn do tuần, đem cúng dường tứ phương Chúng Tăng và Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho đến Duyên Giác.

Nếu có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Niết Bàn, hay sau khi Niết Bàn dùng khối đất bùn làm Tháp như quả Am Ma Lặc, mũi Tháp nhọn như kim hình căm xe Pháp Luân.

Trên có lộng che như lá táo, bên trong an trí tưởng Tượng Phật bằng hạt lúa mạch, phía dưới an táng Xá Lợi như hạt cải trắng, thì ta nói phước đức người này rộng lớn hơn những người trước. Đó là bốn châu lớn mà ông vừa biết.

Này A Nan Đà! Nếu có thiện nam, tín nữ nào lấy bảy báu làm nhà Đế Thích Thiên Chủ thiện pháp đem bố thí cúng dường tứ phương Chúng Tăng và Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho đến Duyên Giác.

Nếu có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Niết Bàn, hay sau khi Niết Bàn lấy khối đất bùn làm Tháp như quả A Ma Lặc trang nghiêm đủ loại, làm mũi Tháp kiểu căm xe Pháp Luân, lộng che ở trên, làm hình Tượng Phật và an táng Xá Lợi giống như trước không khác, thì ta nói phước đức người này rộng lớn hơn những người trước.

A Nan Đà! Đó là bốn châu và nhà thiện pháp mà ông vừa biết.

Này A Nan Đà! Nếu có thiện nam, tín nữ nào có lòng tin cho đến lấy bảy báu làm ba ngàn đại thiên thế giới, đem bố thí cúng dường tứ phương Chúng Tăng và Tứ Quả cả Duyên Giác.

Nếu có Ứng Chánh Đẳng Giác Niết Bàn, hay sau khi Niết Bàn, lấy khối đất bùn làm Tháp như quả Am Ma Lặc, trang nghiêm đủ loại, tướng Pháp Luân, lộng che cung trí hình Tượng Phật và an táng Xá Lợi giống như trước không khác, thì ta nói phước đức người này rộng lớn hơn những người trước.

Vì sao?

Này A Nan Đà, vì Như Lai hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và nhất thiết vô lượng vô biên, cho đến thập lực, tứ trí, tam bất cộng pháp và tứ niệm xứ, thậm chí cả lòng đại bi cũng vô lượng vô biên, do Như Lai có công đức như vậy.

Này A Nan Đà! Khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết pháp khắp cả ba ngàn đại thiên Thế Giới chấn động.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan Đà bạch Phật: Kính thưa Thế Tôn! Chánh pháp hiện tại bây giờ tên gì?

Và thọ trì ra sao?

Phật bảo A Nan Đà: Kinh này đặt tên là Chánh Pháp Cam Lồ cổ, cũng gọi là Vị Tằng Hữu Chánh Pháp, nên thọ trì như vậy. Tôn Giả A Nan Đà với tâm hy hữu vâng theo sự giáo hoá của Phật tín thọ phụng hành, đảnh lễ thối lui.

***