Kinh Đại thừa
Bộ Bát Nhã
PHẬT THUYẾT KINH LIỄU NGHĨA
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên biết, nếu các Đại Bồ Tát ưa thích muốn tu tập, hành tương ưng với Ba la mật đa thì với các pháp nên như thật biết rõ những gì làm ra đều lìa tất cả tướng.
Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất chấp tay cung kính thưa trước Phật: Bạch Thế Tôn!
Như Thế Tôn nói: Các Đại Bồ Tát ưa thích muốn tu tập, hành tương ưng với Ba la mật đa, vậy làm thế nào để biết rõ tự tánh của các pháp?
Với những gì làm ra, làm thế nào để lìa tướng?
Đức Phật dạy Xá Lợi Tử: Nếu các Đại Bồ Tát ưa thích muốn viên mãn thắng hạnh tương ưng và với các pháp lìa tướng đã tạo tác thì phải hiểu các pháp trụ mà không chỗ trụ, thì có thể viên mãn thắng hạnh tương ưng.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Nếu các Đại Bồ Tát ở trong các pháp hành hạnh bố thí mà không thấy có người bố thí, không có vật được bố thí, bố thí đều không có chỗ đắc. Nếu bố thí như vậy thì có thể viên mãn thí Ba la mật.
Lại nữa, vị nào tu tập các giới pháp mà không thấy có người giữ, không có giới để giữ, không tạo tác. Nếu giữ giới như vậy thì có thể viên mãn giới Ba la mật.
Lại nữa, vị nào tu tập pháp nhẫn nhục, ở trong các pháp không bị động chuyển, lìa các tạo tác. Nếu nhẫn nhục như vậy thì có thể viên mãn nhẫn Ba la mật.
Lại nữa, trong hạnh tương ưng phải tinh tấn tu tập, dù thân hay tâm đều không biếng nhác, không có tướng tạo tác. Nếu tinh tấn như vậy thì có thể viên mãn tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, trong các pháp không bị tán loạn, lìa xa các tướng sở đắc. Nếu không tán loạn như vậy thì có thể viên mãn định Ba la mật.
Này Xá Lợi Tử! Nếu các Đại Bồ Tát ưa thích muốn an trụ tương ưng với bát nhã Ba la mật đa thì cần phải viên mãn bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo.
Lại nữa, quán tưởng không tam ma địa, vô tướng Tam Ma Địa, vô nguyện Tam Ma Địa, bốn pháp thiền định, bốn pháp vô lượng, bốn pháp vô sắc định, tám pháp giải thoát, cửu tiên hành pháp, chín pháp tưởng.
Sao gọi là chín tưởng?
Nghĩa là tưởng pháp bên trong, tưởng vĩ bố dã ca, tưởng lìa đỏ, tưởng lìa xanh, tưởng vô trụ, tưởng khiếp nhĩ đa, tưởng ly tán, tưởng không nhiệt não, tưởng lìa ăn uống. Như vậy gọi là chín pháp tưởng.
Lại nữa, tưởng niệm Phật, tưởng niệm Pháp, tưởng niệm Tăng, tưởng niệm giới, thí, thiên v.v… tưởng lìa phiền não, tưởng niệm sanh diệt, tưởng niệm vô thường, khổ, vô ngã v.v… tưởng niệm các thế gian không cứu cánh, tưởng niệm khổ trí, tưởng tập trí, tưởng diệt trí.
Tưởng đạo trí, tưởng tận trí, tưởng vô sanh trí, tưởng pháp trí, tưởng vô ngã trí, tưởng hòa hợp trí, tưởng như thật trí, tưởng ngôn ngữ phân biệt, tưởng lìa ngôn ngữ phân biệt, tưởng vị tri đương tri căn, tưởng dĩ tri căn, tưởng cụ tri căn, tưởng bất tịnh, tưởng thanh tịnh, tưởng chỉ và quán, tưởng ba minh, tưởng bốn liễu tri, tưởng bốn vô úy, tưởng năm thần thông.
Tưởng sáu Ba la mật, tưởng bảy chỗ trụ tâm, tưởng tám pháp đại nhân, tưởng chín chỗ ở của chúng sanh, tưởng mười lực của Như Lai, tưởng mười tám pháp bất cộng, tưởng đại từ, tưởng đại bi, cho đến tưởng trí nhất thiết trí. Với các pháp như vậy phải tưởng như vậy.
Lại nữa, các Đại Bồ Tát ưa thích viên mãn nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí thì nên quán tưởng như thật về bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, nếu muốn viên mãn Đạo Tướng trí và nhất thiết tướng trí thì thấu đạt rõ ràng các hành tướng của tâm tất cả chúng sanh, đoạn trừ các tạp nhiễm của tất cả chúng sanh, cần phải tu tập thắng hạnh tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Này Xá Lợi Tử! Theo các môn tưởng các pháp mà ta đã nói trên đây, Đại Bồ Tát phải học như vậy.
Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Tử lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu tập bát nhã Ba la mật đa nên đoạn trừ pháp gì?
Đức Phật dạy Xá Lợi Tử: Ai tu tập bát nhã Ba la mật đa cần phải đoạn trừ mười thứ nghi ngờ.
Thế nào là mười?
Nghĩa là: Nghi hữu tánh, nghi vô tánh, nghi các pháp sai biệt, nghi hủy báng, nghi một pháp, nghi nhiều pháp, nghi đồng khác, nghi phẩm thượng, nghi như danh, nghi như danh nghĩa. Mười loại nghi ngờ này cần phải đoạn trừ.
Nếu làm được như vậy thì Đại Bồ Tát với tất cả tướng đều không có sự quán. Vì tướng không sự quán nên cũng gọi là không có sự quán bát nhã Ba la mật đa, không có sự quán các hành, không có sự quán sắc, không có sự quán thọ tưởng hành thức. Tất cả đều không có sự quán.
Vì sao?
Vì tự tánh của sắc là không, nên không ấy lìa tánh. Thể của sắc là không, lìa sắc thì chẳng có không riêng biệt. Thể của không là sắc, lìa không thì chẳng có sắc riêng biệt.
Nghĩa ấy như thế nào?
Vì phân biệt! Xá Lợi Tử nên biết, tự tánh của sắc pháp không sanh không diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh, nên gọi là tự tánh. Cũng chẳng phải duyên pháp, lìa các nghi ngờ, không từ đâu đến và cũng không có chỗ nào trụ.
Vì phát ra như thật nên lìa ba giai đoạn. Sắc pháp như vậy, thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. Cho nên Đại Bồ Tát đối với các danh tướng đều không có sự quán. Vì không có sự quán nên không có sự nhập. Không sự nhập thì có thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa.
***