Kinh Đại thừa

Bộ Niết Bàn

PHẬT THUYẾT

KINH NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nghĩa Tịnh, Đời Đường
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Bạc Già Phạm Bhagavaṃ. Thế Tôn ngự trong Tiên Nhân Đọa Xứ Thí Lộc Lâm Mṛgadāva. Rừng dành cho loài nai vui sống tại nước Ba La Nhiếp Kỳ Vārāṇasi.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo năm vị Bật Sô Bhikṣu rằng: Các ông nên biết hình thể vật chất Rūpa skandha.

Sắc uẩn chẳng phải là ta Ātma: Ngã. Nếu là ta thời hình thể vật chất chẳng nên bệnh với nhận chịu khổ não. Ta muốn hình thể vật chất như vậy, ta chẳng muốn hình thể vật chất như vậy. Đã chẳng như vậy để tùy theo điều ước muốn của tình. Chính vì thế cho nên biết hình thể vật chất chẳng phải là ta.

Cảm Giác Vedanā skandha: Thọ uẩn, tri giác.

Saṃjñāskandha: Tưởng uẩn, lưu chuyển tạo ứng Saṃskāra skandha.

Hành uẩn, nhận thức Vijñāna skandha.

Thức uẩn cũng lại như vậy.

Lại nữa Bật Sô.

Ý của ông thế nào?

Hình thể vật chất sắc là thường Nitya hay là vô thường Anitya?

Bạch rằng: Đại Đức! Hình thể vật chất sắc là vô thường Anitya.

Đức Phật nói: Hình thể vật chất sắc đã vô thường Anitya.

Đây tức là khổ Duḥkha: Cái gì xấu bởi vì nó trống rỗng, không thật, bất toàn, vô thường, hư giả, không làm thỏa mãn, hoặc là khổ khổ Duḥkha duḥkha: Sự khổ não dồn dập khiến cho thân tâm bị tổn thương.

Hoại khổ Vṛtti duḥkha: Sự khổ não do vô thường chuyển biến, phân hóa mất mát, hành khổ Saṃskāra duḥkha. Sự khổ não do chấp thân có năm uẩn, sự khổ đau phiền não khi bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi.

Như thế đệ tử Thanh Văn Śrāvaka, Đa Văn Bahu śrūta của ta chấp có cái ta Ātma: Ngã chăng. Hình thể vật chất sắc tức là cái ta.

Cái ta có các hình thể vật chất sắc, hình thể vật chất sắc thuộc về cái ta, cái ta ở ngay trong hình thể vật chất sắc chăng?

Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng phải như thế.

Nên biết cảm giác Vedanā: Thọ, Tri Giác Saṃjñā.

Tưởng, lưu chuyển tạo ứng Saṃskāra. Hành, nhận thức Vijñāna. Thức, thường Nitya cùng với vô thường Anitya cũng lại như vậy.

 Phàm hết thảy hình thể vật chất sắc hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô sơ, nhỏ nhiệm, hoặc hơn, hoặc kém, hoặc xa hoặc gần thảy đều không có cái ta vô ngã: Anātman, hoặc Nir ātman.

Các ông nên biết, nên dùng chính trí Samyag jñāna: Trí tuệ khế hợp với lý chính đúng mà khéo quán sát.

Như vậy hết thảy cảm giác Vedanā: Thọ, tri giác Saṃjñā. Tưởng, lưu chuyển tạo ứng Saṃskāra.

Hành, nhận thức Vijñāna: Thức quá khứ hiện tại vị lai… đều nên như lúc trước chính trí quán sát.

Nếu chúng Thanh Văn Thánh đệ tử của ta, quán năm thủ uẩn Pañcaskandha này, biết không có cái ta ngã:

Ātma cùng với cái của ta ngã sở. Mama kāra liền biết thế gian không có năng thủ Grāhaka: Chủ thể nhận biết phân biệt đối tượng.

Sở thủ Grāhya: Đối tượng đã được nhận biết phân biệt cũng chẳng chuyển biến, chỉ do tự mình tỏ ngộ mà chứng Niết Bàn Nirvāṇa.

ngã sinh hành vi của ta, điều sinh ra ta đã hết, phạm hạnh Brahma caryā đã dựng lập, chỗ cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ nhận Hậu Hữu Punarbhava: Quả báo đời vị lai, thân tâm của đời sau.

Khi Phật nói pháp này thời nhóm năm vị Bật Sô đối với các phiền não Kleśa, tâm được giải thoát Vimokṣa, vimukti, mukti, tin nhận, phụng hành.

***