Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
 

PHẦN BỐN
 

Sau Phật diệt độ, đời ác thế

Có các Tỳ Kheo không tri kiến

Tuy nói tri kiến để mưu sinh

Tự mình không hành pháp tri kiến.

Ví như kẻ nghèo bị người khinh

Sau đó phú quý người cung kính

Người, Trời, Rồng, Quỷ, Cưu Bàn Trà

Quyết không cúng dường người không định.

Nếu được tam muội vi diệu địa

Bậc trí liền được kho trí rộng

Được các hàng Trời, người cung kính

Hay dùng thượng thí, cho chúng sinh.

Ta nghe được lợi ích như vậy

Hết sức cao tột, Phật nói ra

Thân thuộc, tài sản đều xả hết

Vì muốn nghe nói tam muội này.

Đồng Tử Nguyệt Quang tâm hoan hỷ

Chắp tay hướng Phật nói lời rằng:

Sau khi Phật tiên đã diệt độ

Con xin hộ trì thắng pháp Phật.

Với thân mạng mình hay thí xả

Cùng các thú vui ở thế gian

Sau này đời ác thật hãi hùng

Con hộ trì định thắng diệu này.

Con thấy thế gian khổ vô lượng

Khởi tâm đại bi mà cứu họ

Với họ, lại khởi tâm đại bi

Nói họ nghe thắng tam muội này.

Trong chúng, năm trăm người đều đứng

Cũng xin hộ trì tam muội này

Khi ấy Đồng Tử là thượng thủ

Cùng trì tam muội thù thắng này.

Bấy giờ Đồng Tử Nguyệt Quang bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Gọi tam muội ấy thế nào cho đúng?

Phật bảo: Này Đồng Tử! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho.

Đó là:

1. Có thể vắng lặng nơi tâm.

2. Tâm không khởi lên.

3. Trí không hòa hợp.

4. Bỏ gánh nặng xuống.

5. Được trí Như Lai.

6. Thành oai lực của Phật.

7. Điều trị sự đắm trước dục.

8. Diệt trừ sân nhuế.

9. Đoạn trừ ngu si.

10. Trụ tâm tương ưng.

11. Xả tâm không trụ

12. Ưa thích thiện pháp.

13. Tước đoạt hữu vi.

14. An trụ chánh tín.

15. Đêm vẫn tỉnh thức.

16. Không bỏ thiền định.

17. Tăng trưởng thiện căn.

18. Không thích sự sinh.

19. Không tạo các nghiệp.

20. Không chấp nội nhập.

21. Không chấp ngoại nhập.

22. Không khen thân mình.

23. Không chê người khác.

24. Không ở nhà thế tục.

25. Giới hạnh thuần thục.

26. Không khinh chê ai.

27. Có đại phước đức.

28. Tự tri.

29. Không khinh tháo.

30. An trụ oai nghi.

31. Bỏ lời nói thô ác.

32. Không có tâm sân hận.

33. Cứu hộ mọi người.

34. Che chở thiện tri thức.

35. Hộ trì lời bí mật.

36. Không sinh tâm độc hại đối với các chúng sinh.

37. Không não loạn người trì giới.

38. Luôn nói lời êm dịu.

39. Không nương vào ba cõi.

40. Thuận nhẫn nơi nhất thiết trí.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta đã từng mở cửa cam lồ

Ta đã nói tự tánh các pháp

Ta đã chỉ lỗi lầm sinh tử

Ta mở bày lợi ích Niết Bàn.

Ta đã dạy lìa ác tri thức

Phải thường thân cận thiện tri thức

Lìa các huyên náo, ở tịch tĩnh

Thường tu tâm từ không gián đoạn.

Phải thường hộ trì giới thanh tịnh

Hoan hỷ ưa thích hạnh Đầu Đà

Nếu thường huân tập nơi tuệ xả

Được tam muội này sẽ không khó.

Người ấy hay được tịch diệt địa

Quyết không rơi vào hàng Thanh Văn

Nhất định sẽ chứng trí tuệ Phật

Liền được vô lượng công Đức Phật.

Thấy các chúng sinh có trí tuệ

Vì họ chỉ bày, thuyết Phật tuệ

Nếu ai hay cầu trí vô thượng

Được tam muội này đâu có khó.

Hoặc vì ăn, khởi tâm ganh ghét

Nên biết ăn rồi, thành bất tịnh

Dụng công vô lượng mới được thành

Nếu quán sâu vậy mới đắc định.

Không vật nào đem định này tới

Chỉ do tịnh giới mới sinh ra

Thể tánh chư pháp thường tịch diệt

Phàm phu vô trí không thể hiểu.

Nếu ai trụ tâm nơi tịch định

Người ấy luôn luôn thường có Phật

Nhân tôn hằng thấy các chúng sinh

Thường tu định tịch diệt như vậy.

Nhớ nghĩ tướng tốt, đức hạnh Phật

Hay khiến các căn không loạn động

Tâm không mê loạn hợp với pháp

Được nghe, được trí như biển cả.

Bậc trí trụ nơi tam muội này

Nhiếp niệm hành nơi chỗ kinh hành

Hay thấy ngàn ức chư Như Lai

Cũng gặp vô lượng hằng sa Phật.

Nếu người trong tâm có mê hoặc

Ở trong Phật Pháp bị hạn lượng

Ở trong vô lượng không hạn lượng

Các Đức Như Lai khó nghĩ bàn.

Tất cả thế gian không ai bằng

Huống lại có người hơn người ấy

Các trí, các đức đều tương ưng

Người ấy không nghi sẽ thành Phật.

Được thân Như Lai sắc vàng tía

Tất cả đoan trang để gần đời

Duyên nơi tâm an trụ như vậy

Mới gọi là Bồ Tát đắc định.

Nhờ nương tướng Phật là hữu tác

Hay trừ tất cả tưởng hữu tướng

Sau đó an trụ nơi vô tướng

Mới thấu đạt được các pháp không.

Có thể an trụ nơi pháp thân

Biết tất cả hữu nhưng vô hữu

Đã tu tập tướng vô hữu rồi

Sau đó quán Phật không sắc thân.

Nay ta vì ông nên khéo nói

Người người hướng đến chỗ như vậy

Nghĩa là giác biết các sự duyên

Vô lượng suy nghĩ thường không dứt.

Nếu ai hay sinh tâm như vậy

Niệm tướng tốt và trí tuệ Phật

Người có thể tu niệm như vậy

Một lòng hướng về không thoái chuyển.

Hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc kinh hành

Không nghi hoặc nơi trí Chư Phật

Được không nghi rồi phát nguyện rằng:

Khiến con được Phật Tam Giới Tôn

Chắc sẽ gặp được các Như Lai

Vào trong Phật Pháp được phân minh

Nơi tam muội này mà khởi lên

Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật

Thân, miệng và ý đều thanh tịnh

Tán thán Chư Phật thường không dứt.

Thường tu như vậy nhớ tướng Phật

Ngày đêm hằng thấy các Như Lai.

Gặp lúc sắp chết, bệnh ngặt nghèo

Bệnh đau bức bách không chịu nổi

Niệm Phật tam muội thường không xả

Không để khổ thống đoạt nhất tâm.

Người ấy vì tự biết pháp này

Nên biết tất cả các pháp không

Nhờ trụ các giáo môn như vậy

Với Bồ Tát hạnh không chán ghét.

Được nghe lợi ích như vậy rồi

Cầu trí vô đẳng của Như Lai

Sau đó không sinh tâm hối tiếc

Bồ Đề tối thượng không đạt được.

Nay ta vì ông nói vô lượng

Ông đối pháp này nếu không thành

Như người tuy giữ thuốc diệu mầu

Tự thân mình bệnh không thể trị.

Cho nên cần phải biết lựa chọn

Nghĩa là cầu tam muội thù thắng

Giới, văn, bố thí thường tu tập

Được tam muội này sẽ không khó.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đồng Tử Nguyệt Quang: Vào thời quá khứ lâu xa, hơn A tăng kỳ kiếp vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, khi ấy có Đức Phật Hiệu là Thanh Đức Như Lai, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời.

Này Đồng Tử! Bấy giờ Thanh Đức Như Lai Ứng Chánh Biến, hội chúng đầu tiên của Đức Phật ấy tập hợp tám ức Thanh Văn, đều là các bậc A La Hán, lậu hoặc đã hết, đạt được tự lợi, sạch hết hữu kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt được tất cả tâm tự tại.

Hội chúng thứ hai gồm có bảy ức chúng, hội chúng thứ ba gồm có sáu ức chúng. Tất cả những vị đó đều là Đại A La Hán, các lậu hoặc đã tận, đạt được tự lợi, sạch hết các kết, nương vào chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt đến tất cả tâm tự tại.

Này Đồng Tử! Bấy giờ Đức Phật ấy thọ bốn vạn năm, lúc ấy Diêm Phù Đề được an ổn, giàu có, sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Này Đồng Tử! Bấy giờ ở Diêm Phù Đề có hai vị Đại Vương, một vị tên là Kiên Cố Lực, vị thứ hai tên là Đại Lực. Hai vị Đại Vương này mỗi người thống lãnh một nửa cõi Diêm Phù Đề. Lãnh thổ của hai Vua an ổn, giàu có, sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Khi ấy Như Lai Thanh Đức xuất hiện ở đời tại nước của Vua Đại Lực.

***