Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
 

PHẦN HAI MƯƠI CHÍN
 

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thực hành thí tối thắng

Với pháp không tham tiếc

Mười thứ lợi lạc ấy

Đạo Sư đã nói rõ.

Vứt bỏ các việc ác

Thường thực hành nghiệp thiện

An trụ pháp thiện nhân

Tâm tu hành bố thí.

Hay tịnh các Cõi Phật

Như Đức Phật đã nói

Đi đến nơi Đạo Tràng

Là kết quả pháp thí.

Vất bỏ tất cả việc

Tu học với Pháp Vương

Hàng phục các phiền não

Họ được đạo không khó.

Lòng từ cho chúng sinh

Tất cả phần phước đức

Không khởi kết ganh ghét

Được niềm vui hơn người.

Bậc trí lìa việc ác

Dũng mãnh làm việc thiện

Trụ pháp thiện trượng phu

Bậc pháp thí đạt được.

Thanh tịnh Quốc Độ Phật

Khởi thiện pháp trợ đạo

Đi gần đến Đạo Tràng

Đó là lợi pháp thí.

Với việc không tham ghét

Hay rõ việc tự tướng

Giải thoát các chấp trước

Việc ái không chướng ngại.

Bậc trí phát tâm này

Khiến chúng sinh có phước

Lòng từ không ganh ghét

Được vui trong thiện pháp.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát, an trụ nơi không, được mười thứ lợi ích.

Những gì là mười?

1. Đứng nơi chỗ Phật đứng.

2. Tu thiền không chấp trước.

3. Không thích tất cả sự thọ sinh.

4. Đối với giới không chấp thủ.

5. Không hủy báng Hiền Thánh.

6. Không tranh cãi đối với tất cả chúng sinh.

7. Không làm việc chúng sinh.

8. Trụ vào sự xa lìa tất cả việc ác.

9. Không hủy báng Chư Phật.

10. Nhiếp thủ tất cả pháp bạch tịnh.

Này Đồng Tử! Đó là Đại Bồ Tát an trụ vào không nên được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ trụ Bậc Thiên Nhân

Là Đạo Sư Thế Thân

Dũng mãnh hay an trụ

Đó là không thọ mạng.

Đạt được vui thiền định

Không đắm trước thế gian

Tâm không mong thọ sinh

Nhờ biết được pháp tánh.

Với giới nếu không chấp

Thành tựu giới vô lậu

Không sinh trong ác đạo

Thường an trụ dòng Thánh.

Trụ nơi không đấu tranh

Nhu nhuyến với thế gian

Biết rõ tất cả việc

Đúng thể tánh như thật.

Cho đến bỏ thân mạng

Không bài báng Như Lai

Quyết định nơi không pháp

Thân chủng không sợ hãi.

Thân tất cả thế gian

Phật Đạo khó nghĩ bàn

Hay giữ nơi Phật Đạo

Không nghi ngờ pháp không.

Là chỗ nhân tôn trụ

Không phải chỗ ngoại đạo

Không nương thiền định lạc,

Không chúng sinh, thọ mạng.

Chưa bao giờ dừng nghỉ

Không y vào thiền lạc

Biết pháp không thọ mạng

Luôn có tâm vô nguyện.

Khéo biết tự tánh pháp

Không nương các phiền não

Tin thích Phật Thắng Nhân

Tâm chưa từng chấp trước.

Thường không có đấu tranh

Quán việc, tu hành xả

An trụ đạo Chánh Giác

Thọ trì pháp Như Lai.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích.

Những gì là mười?

1. Tâm không ô trược.

2. Trụ nơi không phóng dật.

3. Được Chư Phật thương nhớ.

4. Tin giác hạnh chân chánh.

5. Không nghi trí Phật.

6. Biết ân.

7. Không hủy báng chánh pháp.

8. Khéo hay phòng hộ giới cấm.

9. Đạt đến địa vị điều phục.

10. Chứng bốn vô ngại.

Này Đồng Tử! Đó là Đại Bồ Tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Trong tâm không uế, loạn

Xa lìa các phóng dật

Giữ hạnh không phóng dật

Cảnh giới của an tọa.

Niệm sáng chiếu soi đời

Tăng trưởng sự tin thích

Trí Phật khó nghĩ bàn

Phương tiện không nghi hoặc.

Hay biết ân Chư Phật

Không bài báng chánh pháp

An trụ Thiện luật nghi

Đạt đến chỗ điều phục.

Được biện tài vô ngại

Thích sống ở giữa rừng,

Bỏ lợi dưỡng cung kính

Cảnh giới của an tọa.

Tâm họ không uế, loạn

Chưa bao giờ phóng dật

Kẻ trí thường cẩn thận

Đó là lợi tịch tĩnh.

Vô úy, thường ái niệm

Tin nơi việc Phật làm

Không nghi ngờ trí Phật

Đó là lợi tịch tĩnh.

Thường nhớ ân Như Lai

Không bài báng chánh pháp

Trụ phương tiện luật nghi

Đó là lợi tịch tịnh.

Họ đã được điều phục

Mau chứng vô ngại biện

Diễn thuyết trăm ngàn kinh

Thường hành không trì trệ.

Mau được Bồ Đề Phật

Hộ trì các Phật Pháp

Hàng phục các tà luận

Rộng làm Bồ Đề Phật.

Bồ Tát khi mạng chung

Vãng sinh nước Cực Lạc

Phật Di Đà thuyết pháp

Mau được nhẫn vô sinh.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát ưa thích sự không nhàm chán có mười thứ lợi ích.

Những gì là mười?

1. Thức tỉnh việc đời.

2. Xa lìa các huyên náo.

3. Không có tranh cãi.

4. Sống chỗ không phiền não.

5. Không tăng hữu lậu.

6. Không sinh sự tranh tụng.

7. An trụ sự yên lặng.

8. Tùy thuận giải thoát tương tục.

9. Mau chứng giải thoát.

10. Ra sức tu hành để được tam muội.

Này Đồng Tử! Đó là Đại Bồ Tát ưa thích sự không nhàn nên được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ:

Thành tựu sự ít việc

Xa lìa các huyên náo

Thành tựu không tranh cãi

Độc tịnh vui thanh nhàn.

Trong lòng không sân não

Không tăng trưởng hữu lậu

Thường hòa, không tranh tụng

Là lợi sống thanh nhàn.

Tâm an, sống tịch diệt

Thường ưa hạnh xa lìa

Tùy thuận không hệ lụy

Mau chứng đạo giải thoát.

Nơi rừng, tập thiền định

Vứt bỏ lỗi huyên náo

Lại không khởi tranh cãi

Là lợi sống núi rừng.

Thường xa lìa hữu vi

Thế gian, không ưa thích

Các lậu không tăng trưởng

Sống trong rừng có lợi.

Không sinh lỗi đấu tranh

Tâm thường thích tịch tĩnh

Khéo giữ thân, khẩu, ý

Trụ không, có lợi này.

Tùy thuận sự giải thoát

Mau được không chướng ngại

Thường ưa sống điềm tịnh

Là lợi ích thanh nhàn.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát ưa sống Đầu Đà, thường đi khất thực, có mười thứ lợi.

Những gì là mười?

1. Xô cờ ngã mạn.

2. Không cầu thân ái.

3. Không mong danh tiếng.

4. Ở trong dòng Thánh.

5. Không dua nịnh, không lừa dối, không hiện tướng lạ lại không kích động.

6. Không tự cao.

7. Không hủy báng người khác.

8. Đoạn trừ yêu, giận.

9. Nếu vào nhà người, không phải vì ăn uống, nhưng vì hành pháp thí.

10. Người tu hành Đầu Đà, nếu khi thuyết pháp được người tin thọ.

Này Đồng Tử! Đó gọi là Đại Bồ Tát thích tu hạnh Đầu Đà, đi khất thực có mười thứ lợi ích.

***