Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
 

PHẦN HAI MƯƠI HAI
 

Không có ai hay biết

Tu định tịch tĩnh này

Chỉ Bậc Thế Gian Thân

Ức kiếp tu khó nghĩ.

Vô lượng pháp bạch tịnh

Từ tam muội này có

Nhờ sức báo định này

Không ai thấy thân ta.

Nếu có tâm như vậy

Danh sắc cũng như thế

Tâm loại không giống nhau

Tướng danh, sắc cũng vậy.

Nếu dùng tưởng thô lớn

Danh sắc tùy thuộc nó

Danh sắc hoặc thô, tế

Đều do tưởng nghĩ sinh.

Nếu người tưởng vi tế

Danh, sắc cũng như vậy

Danh sắc không đắm trước

Thân tâm ấy chiếu sáng.

Ta nhớ đời quá khứ

Bảy mươi A tăng kỳ

Ba loại ác tưởng này

Từ gốc chưa từng khởi.

Nhờ dùng tâm vô lậu

Ức kiếp chẳng nghĩ bàn

Vì lợi ích chúng sinh

Họ không thấy thân ta.

Nếu ai dùng vật này

Tâm ý được xả bỏ

Người này với vật kia

Liền không cùng hòa hợp.

Tâm ta được giải thoát

Trong tất cả vật dụng

Hay biết được tánh mình

Nên khởi sinh trí tuệ.

Với ngàn ức Cõi Phật

Trong đó ta hiện hóa

Vì chúng sinh thuyết pháp

Cho nên không thể thấy.

Không tướng, không hình mạo

Giống như nơi hư không

Thân ta không thể nói

Vì đoạn đường ngôn ngữ.

Pháp Thân rất hùng mãnh

Thân ấy từ pháp sinh

Chưa từng có sắc thân

Nói đó chính là Phật.

Nếu nói về thân này

Nghe xong liền hoan hỷ

Các Ma Ba Tuần kia

Không thể làm gì được.

Nghe pháp thâm diệu này

Mà không sinh hoảng sợ

Không vì sự sinh sống

Phỉ báng Bồ Đề Phật.

Ngàn ức Tu Đa La

Trí như thật diễn thuyết

Vì chúng sinh chiếu sáng

Nơi nơi đều đến đích.

Này Đồng Tử! Đó là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, nếu muốn biết nghiệp tướng sắc thân của Như Lai, hoàn toàn không thể biết được hoặc xanh, hoặc sắc xanh, hoặc tương tự xanh, hoặc tướng mạo xanh.

Hoặc vàng, hoặc sắc vàng, hoặc tương tự vàng, hoặc tướng mạo vàng.

Hoặc đỏ, hoặc sắc đỏ, hoặc tương tự đỏ, hoặc tướng mạo đỏ.

Hoặc trắng, hoặc sắc trắng, hoặc tương tự trắng, hoặc tướng mạo trắng.

Hoặc hồng tía, hoặc sắc hồng tía, hoặc tương tự hồng tía, hoặc tướng mạo hồng tía.

Hoặc pha lê, hoặc màu pha lê, hoặc tương tự pha lê, hoặc tướng mạo pha lê.

Hoặc lửa, hoặc sắc lửa, hoặc tương tự lửa, hoặc tướng mạo lửa.

Hoặc vàng bạc, hoặc sắc vàng, hoặc tương tự vàng, hoặc tướng mạo vàng.

Hoặc như điện chớp, hoặc sắc như điện chớp, hoặc tương tự điện chớp, hoặc tướng mạo như điện chớp.

Hoặc tươi sáng, hoặc sắc tươi sáng, hoặc tương tự tươi sáng, hoặc tướng mạo tươi sáng. Hoặc Tỳ Lưu Ly, hoặc sắc Tỳ Lưu Ly, hoặc tương tự Tỳ Lưu Ly, hoặc tướng mạo Tỳ Lưu Ly.

Hoặc Trời, hoặc sắc của Trời, hoặc tương tự Trời, hoặc tướng mạo Trời.

Hoặc Phạm, hoặc sắc Phạm, hoặc tương tự Phạm, hoặc tướng mạo Phạm.

Này Đồng Tử! Đó là thân của Như Lai. Tất cả thân tướng của Như Lai không thể lường được, vì không thể nghĩ bàn, cũng không thể nói được. Sắc thân đã thành tựu, Chư Thiên, người đời không thể suy lường được, là dài, ngắn, rộng hẹp, tất cả loại như vậy, không có hạn lượng, bằng nhau, chẳng thể nghĩ bàn. Những loại như vậy, không thể đếm được.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng:

Trong tất cả Thế Giới

Tất cả các vi trần

Cùng với nguồn ao suối

Bao nhiêu nước biển cả.

Dẫu toán thuật có giỏi

Không thể biết hết được

Cũng không biết số bụi

Cùng với số giọt nước.

Đức Như Lai Đạo Sư

Nói ví dụ ấy rồi

Số giọt nước vô hạn

Số bụi cũng như vậy.

Ta thấy các chúng sinh

Nhiều như số bụi ấy

Phát tâm và khởi tín

Trong một lúc đều biết.

Nếu nơi tự thân ta

Hiển hiện sắc da ngoài

Các chúng sinh tín dục

Không ví dụ biết được.

Hoặc tướng cùng với nghiệp

Sắc tượng ấy như vậy

Không ai biết được Phật

Tướng ta đúng như vậy.

Phật xa lìa nơi tướng

Hiển bày nơi pháp thân

Thậm thâm, không hạn lượng

Là Phật, chẳng nghĩ bàn.

Chánh giác chẳng nghĩ bàn

Thân Như Lai cũng thế

Pháp thân không nghĩ bàn

Vì hiển bày pháp thân.

Tâm nghiệp không thể biết

Thân này không thể nghĩ

Cùng với thân tướng ấy

Đều không thể đo lường.

Pháp ấy vô hạn lượng

Ức kiếp đã tu tập

Được thân khó nghĩ này

Phát ánh sáng thanh tịnh.

Chúng sinh không thể nắm

Nắm lấy không thể được

Cho nên thân Như Lai

Khó lường, không thể nghĩ.

Với các pháp vô lượng

Mà nắm nơi hạn lượng

Trong pháp không phân biệt

Phật không có phân biệt.

Nơi phân biệt hạn lượng

Nói về không phân biệt

Tuy nghĩ không phân biệt

Phật ấy không nghĩ bàn.

Vô hạn như hư không

Không thể đo lường được

Thân Phật cũng như vậy

Giống như bầu thái hư.

Nếu có các Phật Tử

Như thật biết thân ta

Thì sẽ được thành Phật

Chẳng nghĩ bàn trên đời.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát có bốn thứ ngôn luận không thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng không thể nghĩ bàn, khó thể cùng tận.

Những gì là bốn?

1. Ngôn luận các hành không thể nghĩ bàn.

2. Ngôn luận quở trách hữu vi không thể nghĩ bàn.

3. Ngôn luận trợ giúp phiền não không thể nghĩ bàn.

4. Ngôn luận thanh tịnh không thể nghĩ bàn.

Này Đồng Tử! Đó là bốn loại ngôn luận không thể nghĩ bàn của Bồ Tát và sự diễn thuyết cũng không thể nghĩ bàn, khó thể cùng tận.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại pháp.

Những gì là bốn?

1. Pháp các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Pháp quở trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Pháp phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Pháp thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại tương ưng.

Những gì là bốn?

1. Các hành tương ưng chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tương ưng sự trách mắng hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tương ưng phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tương ưng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn cửa.

Những gì là bốn?

1. Cửa các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Cửa chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Cửa phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Cửa thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại cửa.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại hành thuyết.

Những gì là bốn?

1. Hành thuyết về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Hành thuyết về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Hành thuyết về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Hành thuyết về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại hành thuyết.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn thứ âm thanh.

Những gì là bốn?

1. Âm thanh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Âm thanh chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Âm thanh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Âm thanh về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại âm thanh.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn thứ tiếng.

Những gì là bốn?

1. Tiếng về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tiếng chê trách về hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tiếng phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tiếng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại tiếng.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại ngôn ngữ đạo.

Những gì là bốn?

1. Ngôn ngữ đạo các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Ngôn ngữ đạo chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Ngôn ngữ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Ngôn ngữ đạo về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại ngôn ngữ đạo.

***