Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
 

PHẦN HAI MƯƠI NĂM
 

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại trí lìa ác đạo.

Những gì là bốn?

1. Trí lìa ác đạo về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí lìa ác đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí lìa ác đạo về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí lìa ác đạo về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí lìa ác đạo.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại trí đoạn trừ vô minh.

Những gì là bốn?

1. Trí đoạn trừ vô minh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí đoạn trừ vô minh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí đoạn trừ vô minh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí đoạn trừ vô minh về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí đoạn trừ vô minh.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn thứ Đà La Ni chẳng thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết.

Những gì là bốn?

1. Ngôn thuyết về các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ nhất.

2. Ngôn thuyết về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ hai.

3. Ngôn thuyết hỗ trợ phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ ba.

4. Ngôn thuyết hỗ trợ thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ tư.

Đó là bốn loại chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại pháp Đà La Ni.

Những gì là bốn?

1. Pháp các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ nhất.

2. Pháp chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ hai.

3. Pháp phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ ba.

4. Pháp thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ tư.

Này Đồng Tử! Đó là bốn loại Đà La Ni chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không sao hết.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại tương ưng Đà La Ni.

Những gì là bốn?

1. Tương ưng các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ nhất.

2. Tương ưng sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ hai.

3. Tương ưng phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ ba.

4. Tương ưng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ tư.

Này Đồng Tử! Đó là bốn thứ Đà La Ni chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự giảng thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn loại Đà La Ni môn.

Những gì là bốn?

1. Môn về các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ nhất.

2. Môn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ hai.

3. Môn về phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ ba.

4. Môn về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà La Ni thứ tư.

Này Đồng Tử! Đó là bốn loại Đà La Ni môn chẳng thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết, cho đến trí đoạn trừ vô minh, đều có bốn loại Đà La Ni chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết, giống như đã nói ở trên.

Này Đồng Tử! Đà La Ni này chính là trí tuệ. Trí tuệ như vậy có thể rõ biết tất cả các pháp, chỉ có danh tự, cho nên gọi là trí pháp vô ngại.

Trí pháp như vậy, có thể thấu đạt ngôn nên gọi là nghĩa vô ngại. Trí pháp như vậy, hay biết ngôn từ sai biệt của các pháp nên gọi là từ vô ngại, hoặc nói văn tự ấy, hoặc hiển thị, hoặc thi thiết, hoặc thứ lớp không đoạn, hoặc mở rõ, hoặc rộng phân biệt, hoặc khai thị làm cho đơn giản, hoặc bình đẳng chỉ khắp, lời lẽ không bị nuốt, không rít rắm, không ú ớ, không khiếp nhược, lời nói không đắm trước, ngôn từ phóng khoáng, vượt trên sự phóng khoáng gọi là nhạo thuyết vô ngại.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ hiện bày ngôn âm

Phát thanh cũng như vậy

Như sự xuất âm thanh

Trí Phật cũng như vậy.

Tất cả trí Chư Phật

Tiếng nói ra cũng thế

Sự thi thiết như vậy

Ánh sáng tiếng cũng thế.

Ánh sáng tiếng như vậy

Tên giới cũng như thế

Danh tự giới như thế

Tên Phật cũng như thế.

Danh hiệu Phật như thế

Công Đức Phật cũng vậy

Ta biết một chúng sinh

Biết họ bao tên gọi.

Vô lượng ngữ ngôn Phật

Trước ta đã tuyên thuyết

Tên giới cùng tên Phật

Tên chúng sinh cũng vậy.

Hữu vi nhiều lầm lỗi

Đức Niết Bàn cũng thế

Phật lợi ích như vậy

Dùng ví dụ hiển bày.

Có tất cả chúng sinh

Đã phát tâm hiển thị

Một sợi lông Đạo Sư

Phát ánh sáng cũng vậy.

Tất cả các chúng sinh

Danh hiệu và tín dục

Như Lai vượt trên chúng

Dùng tiếng, thân thuyết pháp.

Tên tất cả chúng sinh

Hiển thị một chúng sinh

Như vậy tên một người

Hiển thị các chúng sinh.

Tất cả bình đẳng nhập

Chánh giác dạy như vậy

Nói vô lượng danh tự

Vì các Bồ Tát vậy.

Sao nay ta có thể

Nói ức vô số Kinh

Thọ trì Kinh Điển này

Hiển bày không khiếp nhược.

Nơi chúng vô ngại biện

Diễn thuyết ức Kinh Điển

Như hư không vô biên

Biện tài cũng như vậy.

Công đức Bồ Tát này

Thanh tịnh dẫn chúng sinh

Thọ trì Kinh Điển này

Thành được trí vô tận.

Luôn luôn hiển thị nói

Nơi pháp hay tín thọ

Tăng trưởng trí tuệ ấy

Giống như cây núi Tuyết.

Này Đồng Tử! Bồ Tát này hành pháp vô ngại, ở nơi pháp thấy pháp mà được an trụ.

Này Đồng Tử! Sao gọi là Đại Bồ Tát hành pháp vô ngại, ở nơi pháp thấy pháp nên được an trụ?

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát này biết chẳng phải sắc không khác với sắc mà nói pháp, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà có thể hay tu hành, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà cầu Bồ Đề, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc nên giáo hóa chúng sinh, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà thấy Như Lai, chỉ không hoại nơi sắc mà thấy Như Lai.

Chẳng phải khác sắc, chẳng phải khác tánh sắc mà thấy Như Lai, sắc và tánh sắc cùng với Như Lai bình đẳng, không có hai. Nếu ai có thể thấy các pháp như vậy, gọi là hành pháp vô ngại. Thức, tưởng, thọ, hành cũng lại như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nhờ sắc hiển Bồ Đề

Nhờ Bồ Đề hiển sắc

Thì không có tương tự

Tối thắng đã nói rõ.

Phật nói sắc tướng thô

Tánh sắc rất thâm áo

Sắc ngang với Bồ Đề

Sai biệt không thể được.

Như Niết Bàn thậm thâm

Nhờ tiếng mà tuyên thuyết

Niết Bàn bất khả đắc

Nói năng cũng như vậy.

Âm thanh và lời nói

Cả hai bất khả đắc

Trong pháp không như vậy

Niết Bàn bất khả đắc.

Nói Niết Bàn tịch diệt

Tịch diệt không thể được

Tất cả pháp không sinh

Như trước sau cũng vậy

Thể tánh tất cả pháp

Niết Bàn cùng tương tự

Người biết chân xuất gia

Cùng tương ưng Phật Pháp

Nếu thấy sắc thân Phật

Nói đã thấy Như Lai

Thân ta chẳng sắc tượng

Không thể thấy Ngài được.

Biết được tự tánh sắc

Sắc tướng ấy như vậy

Ai biết được tánh sắc

Là hiển thị thân lớn.

Các ngũ ấm như vậy

Ta đã biết tướng mạo

Đạt tự thể tánh pháp

An trụ nơi pháp thân.

An trụ pháp thân rồi

Thuyết pháp cho chúng sinh

Pháp vi diệu Như Lai

Không thể dùng lời nói.

Lý sâu không thể biết

Nghe Bậc Chánh Giác nói

Chỉ âm thanh ngôn ngữ

Ta đã được sơ quả.

Nếu trừ tất cả tưởng

Xa lìa việc hý luận

Nếu không có hữu tưởng

Thì thấy Thế Đại Sư.

Nếu ai hay biết không

Liền biết được sắc tướng

Không có khác nói không

Riêng có tự tánh sắc.

Nếu ai biết được sắc

Thì có thể biết không

Nếu ai ngộ được không

Thì biết được tịch diệt.

Nếu ai biết được sắc

Là sắc tướng như vậy

Không bị ức ma loạn

Thoái chuyển quả Bồ Đề.

Ai không biết đạo này

Đắm trước sẽ thoái bước

Phi vật chấp tưởng vật

Vật chấp tưởng phi vật.

***