Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
 

PHẦN SÁU
 

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu ai dâng hương Vô Biên Trí

Hay được vô lượng quả báo hương

Trong ngàn vạn kiếp lìa đường ác

Hoàn toàn không có các xú uế,

Trong ngàn vạn kiếp hành thắng hạnh

Cúng dường trăm vạn ức Như Lai

Thành Phật Đạt được thắng giới hương.

Nếu lại rõ hiểu không chúng sinh

Thí hương, nhận hương cả hai không

Nếu hay khởi tâm thí như vậy

Sẽ được thuận nhẫn thắng nhu nhuyến.

Nếu người tu nhẫn tăng thượng này

Bị người cắt thân giống như trước

Trong ngàn vạn ức hằng sa kiếp

Nhưng tâm kiên cố không thoái chuyển.

Vì sao mà được gọi là nhẫn?

Vì sao lại gọi là tùy thuận?

Vì sao được gọi không thoái chuyển?

Vì sao lại gọi là Bồ Tát?

Tự tánh hân hoan không ngã chấp

Vì không ngã tưởng, không phiền não

Hay biết các pháp đều tận diệt

Do nhân duyên này gọi là nhẫn.

Điều Chư Phật học, tùy thuận học

Người trí như pháp thường tu hành

Biết pháp Chư Phật không nghi hoặc

Cho nên được gọi là tùy thuận.

Nếu tu hành lúc đời có ma

Hiện làm thân Phật nói lời rằng:

Phật Đạo khó được, làm Thanh Văn

Không chịu tín thọ là không thoái.

Giác ngộ các chúng sinh ác kiến

Họ không thể chứng đạo cam lồ

Khuyên bỏ ác đạo, trụ thiện đạo

Cho nên được gọi là Bồ Tát.

Người nhẫn trụ nơi đạo tùy thuận

Nhờ không ngã pháp, khiến khai ngộ

Cho đến trong mộng không khởi niệm

Còn có chúng sinh, tưởng thọ mạng,

Nếu ma vô lượng như hằng sa

Hóa làm thân Phật đến chỗ ta

Hoặc nói trong thân có thần ngã

Liền nói vô ngã, ngươi phi Phật.

Nhờ trí liễu đạt các pháp không.

Biết rồi không sống cùng phiền não

Do hý luận nên nói là có

Thấy rồi vắng lặng, hành thế gian.

Ví như người đời đã sinh con

Tùy ý của mình đặt tên gọi

Tìm tên khắp nơi cũng không có

Nên biết tên ấy không chỗ đến.

Lập danh Bồ Tát cũng như vậy

Bồ Tát khắp nơi không thể tìm

Cho đến thật tế cầu không được

Người biết như vậy gọi Bồ Tát.

Giả như trong biển đốt lửa cháy

Bồ Tát không hề khởi thân kiến

Bồ Tát được trụ sơ phát tâm

Đoạn sạch ác kiến, hết phiền não.

Không thấy có các pháp sinh diệt,

Gọi là chúng sinh và thọ mạng

Thể các pháp không, giống như huyễn

Việc này ngoại đạo không thể biết.

Hoặc sinh tham trước việc ăn uống

Khởi tâm luyến tiếc nơi y bát

Cùng với trạo cử và khinh tháo

Thì không thể biết Phật Bồ Đề.

Ham thích ngủ nghỉ và lười biếng

Gian ngụy, hung bạo không thu nhiếp

Không lòng tịnh tín nơi Chư Phật

Thì không thể biết Phật Bồ Đề.

Hủy phá giới cấm không hổ thẹn

Ở trong Phật Pháp không uy tín

Không kính các phạm hạnh đồng tu

Thì không thể biết Phật Bồ Đề.

Không hủy tịnh giới, có hổ thẹn

Ở trong Phật Pháp rất ưa thích

Hay cung kính người đồng phạm hạnh

Thì mới biết được thắng Bồ Đề.

Lấy cảnh giới Thánh làm niệm xứ

Hoan hỷ chính là giường, ngọa cụ

Lấy thiền làm cơm, định làm canh

Như vậy mới biết Phật Bồ Đề.

Vô ngã, nhẫn là chỗ kinh hành

Ở trong rừng không hành chánh niệm

Hương hoa thất giác rất đáng yêu

Ngửi xong liền thành đạo vô thượng.

Thể đạo Bồ Tát chỗ tu hành

Không phải việc làm của người khác

Gọi là Thanh Văn và Duyên Giác

Chỉ có người trí không tham đắm.

Ví thọ mạng ta rất lâu dài

Như cát Sông Hằng, vô lượng kiếp

Nối sợi lông Phật đức vô tận

Chút đức của Phật nói không hết.

Nếu nghe lợi ích lớn như vậy

Không sợ những điều Thế Tôn nói

Mau tự dạy người giữ định này

Được Bồ Đề Vô Thượng không khó.

Này Đồng Tử! Cho nên Đại Bồ Tát phải biết nhập vào ba pháp nhẫn một cách khéo léo. Đó là biết nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai và nhẫn thứ ba. Trong nhẫn này phải biết một cách khéo léo. Lại đối với trí ấy cũng phải biết một cách khéo léo.

Vì sao?

Vì nếu Đại Bồ Tát đối với trong nhẫn trí mà biết một cách khéo léo thì Đại Bồ Tát ấy mau được quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Cho nên, này Đồng Tử! Đại Bồ Tát nếu cầu mau chứng đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thì cần phải thọ trì ba môn pháp nhẫn này, thọ trì rồi phân biệt, nói rộng cho người khác nghe, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sinh, cứu giúp thế gian, làm lợi ích an lạc Chư Thiên và loài người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Đồng Tử Nguyệt Quang liền nói câu kệ tụng pháp môn nhập vào ba nhẫn này:

Đối với chúng sinh không tranh cãi

Miệng không nói ra lời vô ích

Thường hay an trụ pháp lợi sinh

Gọi đó tên là Nhẫn đầu tiên.

Biết tất cả pháp giống như huyễn

Liền nơi tướng này không chấp thủ

Hay ở trong trí không tăng giảm

Nên gọi là thắng nhẫn đầu tiên.

Đã tu học các Tu Đa La

Trí và khéo nói hằng tương ưng

Không nghi hoặc trí Phật vô lượng

Đó gọi là thắng nhẫn đầu tiên.

Nếu nghe tất cả, khéo thuyết pháp

Giống như Phật thuyết không có nghi

Hay tin tất cả, các pháp Phật

Đó gọi là thắng nhẫn đầu tiên.

Với kinh liễu nghĩa thường tuyên diễn

Diễn thuyết như chỗ Phật đã nói

Nếu nói: Ngã, nhân và chúng sinh

Liền biết phương tiện mà tiếp dẫn.

Các dị kiến của nhiều ngoại đạo

Với họ, tâm Bồ Tát không đông

Lại đối vơi họ càng xót thương

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ hai.

Các Đà La Ni đến trước mặt

Với môn tổng trì không nghi hoặc

Những lời nói ra đều chân thật

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ hai.

Giả sử tướng bốn đại chuyển biến

Đó là đất, nước, gió và lửa

Với Bồ Đề Phật vẫn không lùi

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ hai.

Các nghề công xảo ở thế gian

Bồ Tát thảy đều khéo tu học

Không thấy có người giỏi hơn mình

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Sức Xa Ma Tha được điều phục

Núi Tỳ Bà Xá Na bất động

Tất cả chúng sinh không thể khinh

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Những lời nói ra thường tại định

Đi, đứng, nằm, ngồi luôn thanh tịnh

Chánh định kiên cố đến bờ kia

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Trụ nơi chánh định được thần thông

Đến nhiều Cõi Phật để thuyết pháp

Sức thần túc bậc trí không giảm

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Hoặc khi tu tịch định như vậy

Tất cả các loại quần sinh khác

Không thể biết ngằn mé tâm họ

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Giả sử các chúng sinh Thế Giới

Cùng lúc thành Phật diễn nói pháp

Người đó đều hay thọ lãnh hết

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ

Hai phương trên, dưới cũng như vậy

Ở trong các phương đều thấy Phật

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Có thể biến hiện vô lượng thân

Tất cả đều có sắc vàng ròng

Đến vô lượng cõi để thuyết pháp

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Các cõi Diêm Phù, Thế Giới Phật

Tất cả đều thấy hình Bồ Tát

Chư Thiên và người đều hay biết

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Trong pháp Chư Phật, chỗ Phật hành

Có các oai nghi của Đạo Sư

Bậc Trí có thể khéo tu tập

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Có các chúng sinh trong Thế Giới

Đều đến khen ngợi Bồ Tát này

Bồ Tát với họ tâm hân hoan

Là chưa tu học nơi trí Phật.

Có các chúng sinh trong Thế Giới

Mắng nhiếc, hủy báng Bồ Tát này

Với họ, nếu khởi tâm sân hân

Nên biết chưa tu học trí Phật.

Nếu được lợi dưỡng tâm không mừng

Khi bị chống trái không buồn khổ

Tâm mình an trụ giống như núi

Gọi là tướng thắng nhẫn thứ ba.

Một là tùy thuận âm thanh nhẫn

Hai là tư duy tùy thuận nhẫn

Ba là nhẫn tu tập vô sinh

Học ba nhẫn này được Bồ Đề.

Nếu nơi ba thắng nhẫn như vậy

Bồ Tát nào có thể đắc được

Thiện Thệ khi thấy Bồ Tát ấy

Liền thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.

Nếu ai một mình nghe thọ ký

Số ức chúng sinh không nghĩ bàn

Đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề:

Ta cần phải làm nhân trung tôn.

Nghe nói tiếng thọ ký như vậy

Tức thời đại địa sáu chấn động

Hào quang chiếu khắp mười phương cõi

Mưa hoa thắng diệu nhiều vô lượng.

***