Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Quang Minh đồng Tử

PHẬT THUYẾT KINH

NHÂN DUYÊN QUANG MINH ĐỒNG TỬ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thi Hộ, Đời Tống
 

PHẦN BỐN
 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng thần lực hóa ra bốn bát:

1. Bát bằng vàng.

2. Bát bằng bạc.

3. Bát bằng phệ lưu ly.

4. Bát bằng phả chi ca.

Hóa bốn bát rồi, lại hóa thêm bốn bát:

1. Bát thứ nhất bằng đá nhũ.

2. Bát thứ hai bằng đồng đỏ.

3. Bát thứ ba bằng Đồng Trắng.

4. Bát thứ tư bằng gỗ.

Hóa xong, lần lượt đem bốn bát trước xếp bày. Bốn bát sau cũng xếp như vậy. Trong mỗi bát có đầy đủ thức ăn thơm ngon nhất, đem đặt một chỗ, các Tỳ Kheo tùy ý mà lấy, tùy người nen nhận.

Khi Phật thu thần lực, bát lại biến mất.

Cho đến về sau này, trưởng giả Quang Minh hưởng phước ở Cõi Trời, hiện tướng an lành, những việc kỳ lạ luôn luôn xuất hiện.

Khi ấy, đường ranh ở giữa cõi nước Chiêm ba và thành Vương Xá có cây trụ, trang sức bằng dây lụa, ở dưới có hai bát: Một bát bằng sắt, một bát bằng đất. Bát này trước đã chú nguyện, đặt ở giữa ranh giới hai nước. Không xa, có một trạm thu thuế.

Các người buon bán đem các vật đến nạp thuế cho Vua. Có một người coi lấy thuế, đầy đủ con cái quyến thuộc, của cải tơ lụa, nhưng không làm việc thiện. Bỗng người ấy chết ở chỗ thu thuế, làm Dạ Xoa lớn ác, cũng ở nơi ấy giữ gìn trạm thuế.

Một đêm, các người con nằm mộng thấy Dạ Xoa nói: Hãy treo một cái chuông rung lớn trên trụ ranh giới ấy. Các người buôn bán đi qua trạm thuế, nếu có vật phải đóng thuế mà giấu không nạp, chuông ấy tự nhiên kêu lên, người lấy thuế biết được sẽ giữ họ lại kiểm soát, lấy được thuế rồi mới cho họ đi.

Các người con thấy mộng rồi, sáng sớm cùng với thân thuộc đến chỗ trạm thuế, tìm thấy cây trụ ranh giới, bèn y theo mộng treo cái chuông rung ở trên.

Bấy giờ, trong nước Chiêm ba có một gia đình Bà La Môn tên Mạn ninh đát mộ, làm nghề mua bán. Một bữa nọ, vợ chồng cùng ngồi lại với nhau.

Vợ bảo chồng: Em ở nhà lo liệu việc trong nhà. Tien bạc của chàng làm ra chỉ đủ tiêu dùng.

Chẳng lẽ cứ như vậy hoài hay sao?

Anh nên vào trong chợ, mua sợi bông vải thật tốt.

Em sẽ dệt thành tấm vải đẹp, anh đem ra chợ bán, không lợi hơn hay sao?

Bà La Môn theo lời vợ nói, mua được sợi vải đem về. Vợ bèn sắp đặt khung dệt, dệt thành tấm vải mềm mại, tốt đẹp, không chê vào đâu được. Đường chỉ ngang dọc kỹ, đều, tinh xảo.

Người vợ chăm chỉ dệt, đã thành một tấm vải tốt, bèn bảo chồng: Tấm vải đã dệt xong, tốt đẹp, mềm mại, giá đáng ngàn vàng. Anh có thể đem ra chợ bán. Nếu có ai trả đúng giá ngàn vàng thì bán cho họ.

Nếu không trả đủ giá ngàn vàng, tùy theo trường hợp, nên nói dịu dàng: Ở đây, không ai làm được tấm vải tốt đẹp, tinh xảo này. Xướng lên vậy rồi đem đến chỗ khác mà bán.

Bấy giờ, Bà La Môn Mạn ninh đát mộ như lời vợ dặn, đem tấm vải tinh xảo này vào bán trong chợ. Rốt cuộc, không có người nào trả đúng ngàn vàng.

Nhớ lời vợ, ông bèn xướng: Trong thành lớn Chiêm ba, không ai làm được tấm vải tinh xảo như vậy.

Nói xong, đem về bàn với vợ: Không có người nào trả đúng giá ấy. Nên đem đến nước khác bán, se có người biết giá trị của nó.

Nói rồi cùng nhau từ biệt.

Khi ấy, Bà La Môn đem một tấm vải đã từng mặc qua, cùng với tấm vải mới dệt giấu trong cán cây lọng, âm thầm đi theo những người buôn, dần dần ra khỏi nước mình.

Vừa đến thành Vương Xá, những người buôn đi qua giữa hai chỗ có trạm thuế. Đến chỗ ấy rồi, gom các vật lại để một chỗ. Lúc này, người lấy thuế lần lượt kiểm soát. Các người buôn đem các vật đóng thuế nạp lên cho Vua. Trong đó chỉ có Bà La Môn Mạn ninh đát mộ, trước đã cất giấu tấm vải trong cái lọng, đứng ở một bên không chịu đem nạp thuế.

Một bên của trạm thuế, trước đó đã trồng cây trụ ranh giới, trên treo cái chuông rung, tự nhiên chuông phát ra tiếng.

Người thu thuế biết trong đoàn có người trốn thuế, bèn nói với chủ buôn: Cái chuông rung trên cây trụ này không phải gió thổi động, không phải người lay động mà tự nhiên phát ra tiếng.

Tôi biết trong đoàn của ông có người giấu vật, không đem nạp thuế phải không?

Người thu thuế liền giữ họ lại kiểm soát, thấy trong đoàn này không có người nào giấu, trốn không nộp thuế. Các người buôn biết chắc không còn vật chưa nạp thuế muốn được tiếp tục đi. Cái linh lại phát ra tiếng, bốn lần như vậy, lại kiểm soát kỹ, cũng không tìm được người nào trốn thuế.

Chủ buôn nói với người thu thuế: Trong đoàn của tôi không có người nào trốn thuế, chắc là đoàn người khác đã lén đi trước rồi.

Nói xong, liền cùng bàn với nhau: Trong này, có một Bà La Môn cất giấu vật không đóng thuế.

Cuối cùng, người thu thuế kia đến chỗ người Bà La Môn Mạn ninh đát mộ nắm lại không thả ra, cố tìm vật trốn thuế.

Bà La Môn nói: Vì sao ông nắm tay tôi?

Ông đã thấy rõ thật không có vật trốn thuế. Tôi không giấu chút vật nào không nạp thuế. Nếu có thì đã đem đóng thuế rồi.

Nói xong, cái chuông rung lại phát ra tiếng.

Khi ấy, người thu thuế nhắm vào Bà La Môn kiểm soát thật kỹ, rồi nói: Bà La Môn! Vì sao ông cố giấu vật, không chịu nạp thuế?

Nay cái chuông rung này phát ra tiếng nhiều lần là việc kỳ lạ. Ông nên biết, dưới cây trụ ranh giới này có Thiên Thần ủng hộ, ông nên đem vật ra nạp thuế, đừng làm việc xấu như vậy.

Bà La Môn nói: Tôi tin là thật, có Thiên Thần ủng hộ.

Nói xong, lấy tấm vải tốt trong cán lọng ra, đưa cho người thu thuế và nói: Đây là vật tôi trốn thuế. Ông hãy lấy nó đi.

Người thu thuế nhận tấm vải này rồi nói với Bà La Môn: Không phải tôi nhận đem nạp cho Vua, cũng không lấy cho tôi, mà là đem dâng cúng Thiên thần.

Nói rồi, đem tấm vải treo lên cây trụ và nói với Bà La Môn: Tôi đã treo tấm vải dâng cho thần linh rồi. Nếu ông muốn lấy hãy tự lấy đi.

Bà La Môn liền lấy tấm vải đó, đem đến một chỗ vắng, cũng cất giấu trong cán lọng như trước, rồi tiếp tục đi dần vào thành Vương Xá.

Bà La Môn đem tấm vải đó bày bán trong chợ, mong có người trả đúng giá ngàn vàng. Đi khắp, rốt cuộc không có ai trả đúng giá như vậy.

Bà La Môn xướng lên: Trong thành lớn Vương Xá không có người nào biết được giá trị của tấm vải tốt đẹp này.

Lúc xướng như vậy, trưởng giả Quang Minh đang cỡi voi báu, từ cung Vua trở về nhà mình, bỗng nghe nói như thế, rất kinh ngạc, bèn dừng lại hỏi Bà La Môn: Vì sao ông nói lời chê bai người trong thành này?

Bà La Môn ấy không trả lời.

Trưởng giả Quang Minh nói: Ông nên nói rõ nguyên nhân của việc ấy.

Bà La Môn nói: Tôi từ nước mình đem hai tấm vải tốt đẹp đến đây bán. Nếu có người trả đúng giá ngàn vàng thì tôi bán. Tôi đã đi khắp mà không có người nào trả đúng giá ấy.

Trưởng giả Quang Minh nói: Ông có thể đem đến để tôi xem kỹ.

Bà La Môn liền theo trưởng giả về đến nhà, rồi lấy tấm vải đó cho trưởng giả xem.

Trưởng giả xem rồi liền nhận biết giá trị, bảo Bà La Môn: Hai tấm vải này một mới, một cũ. Cái cũ tôi trả ông giá năm trăm tiền vàng.

Bà La Môn nói: Giá trưởng giả trả chưa bán được.

Trưởng giả Quang Minh nói: Ta thấy tấm vải này cũ, phải giặt tẩy mới trở thành mới.

Trưởng giả liền đem tấm vải cũ, ở trên lầu cao quăng từ trên không xuống, tấm vải ấy nặng, liền rơi xuống đất.

Trưởng giả Quang Minh nói với Bà La Môn: Tôi muốn xem kỹ tấm vải mới còn lại.

Bà La Môn lấy tấm vải mới trao cho trưởng giả. trưởng giả xem xong, cũng làm như trước. Từ trên không quăng xuống, tấm vải ấy nhẹ, tốt nên từ từ mới xuống đến đất.

Bà La Môn sinh lòng kính trọng, nói: Trưởng giả Quang Minh có oai lực lớn. Hai tấm vải tốt đẹp này, mới, cũ tôi đều dâng cho ông, không lấy giá ấy. Ông nên nhận lấy.

Trưởng giả đáp: Nhà tôi rất giàu có. Ông đã trải qua gian khổ, tôi không thể vô cớ nhận vật này của ông. Nay, tôi trả cho ông mỗi tấm ngàn vàng, ông đưa cho tôi hai tấm vải này.

Bà La Môn nhận được tiền vàng rồi trở về nhà.

Trưởng giả Quang Minh lấy tấm vải cũ đem cho người ở. Sau lấy tấm vải mới làm khăn mới để dùng thường ngày. Trưởng giả dùng khăn rồi, sau đó đem phơi nắng.

Bấy giờ, Vua Tần Bà Sa La cùng người hầu cận mới vừa lên cung điện, bỗng nhiên có gió mạnh thổi khăn ấy rơi xuống trước mặt Vua.

Vua Tần Bà Sa La bảo người hầu cận: Tấm vải tốt đẹp này từ đâu bay đến?

Chỉ có hàng vương giả mới sử dụng nó.

Người hầu cận tâu: Tâu Đại Vương, thần đã từng nghe: Chuyển luân thánh vương bảy ngày sắp sửa lên ngôi, Trời mưa vàng. Nay Đại Vương đã lên ngôi, Trời mưa tấm vải tốt đẹp, không lâu sau cũng sẽ mưa vàng.

Vua nói: Các ngươi không biết.

Ta nghe Phật thọ ký: trưởng giả Quang Minh ở trong cõi người thọ hưởng phước Trời. Tấm vải tốt đẹp này là vật của Quang Minh dùng, gió bay đến đây, có thể mời người ấy đến đây trao trả lại.

Trưởng giả Quang Minh liền đến trước vật.

Vua nói: Trưởng giả, trước kia Phật thọ ký cho ông, ở trong cõi người

thọ hưởng phước Trời. Tấm vải tốt đẹp này là của ông, ta trả lại cho ông.

Trưởng giả Quang Minh cúi mình đưa tay đón nhận tấm vải ấy.

Nhận rồi, xem đúng là của mình, liền tâu Vua: Đây là khăn sạch tôi dùng ở nhà, mới vừa đem phơi nắng, gió bay đến đây. Việc ấy đúng là thật.

Vua bảo trưởng giả: Phật thọ ký cho ông thọ hưởng phước Trời, hiện tướng an lành.

Lời Phật chắc thật, việc ấy đúng vậy.

Lại nói với trưởng giả: Bây giờ tướng tốt của ông đã được như vậy, sao không mời Vua đến nhà ông xem qua một lượt?

Trưởng giả tâu: Nay tôi may mắn, xin được mời Vua đến nhà.

Vua nói: Trưởng giả! Ông nên về trước chuẩn bị các thức ăn uống.

Trưởng giả tâu: Đại Vương! Người thọ hưởng phước Trời, không cần làm mà tự nhiên có, rất may mắn mời Vua đến nhà.

Vua Tần Bà Sa La cùng quần thần thân cận đến nhà trưởng giả Quang Minh. trưởng giả dẫn đường cho Vua tới nhà mình.

Vua thấy ở ngoài cửa có đứa tớ gái giữ cửa, tướng mạo rất xinh đẹp lạ thường, bèn dừng lại giây lát.

Trưởng giả tâu: Vì sao Đại Vương dừng lại đây mà không đi tiếp?

Vua nói: Trưởng giả, ta thấy vợ ông nên mới dừng lại đây.

Trưởng giả đáp: Đây là tớ gái giữ cửa, không phải vợ tôi.

Vua đi tiếp đến cửa giữa, thấy một tớ gái giữ cửa, Vua cũng dừng lại không đi tiếp.

Trưởng giả tâu: Vì sao Vua lại dừng, không đi?

Vua trả lời như trước.

Trưởng giả tâu: Đó không phải là vợ tôi, mà là đứa tớ gái giữ cửa giữa.

Vua lại tiến vao cửa bên trong, thấy trên đất có báu ma ni, nước chảy, cá và các loại côn trùng. Vua cho đó là cái ao, cũng dừng lại giây lát.

Trưởng giả tâu: Sao Đại Vương dừng ở đây không đi?

Vua đáp: Nơi đây có nước, nên ta không đi tiếp.

Trưởng giả tâu: Đại Vương, nơi đây không có nước, chỗ đất này làm bằng báu ma ni.

Vua nói: Trưởng giả, nếu là đất báu, sao có các tướng nước chảy, có cá và côn trùng.

Trưởng giả tâu: Đại Vương, trên có chạm khắc hình bánh xe quay, cá và côn trùng… do ánh sáng của báu ma ni phản chiếu cho nên thấy như vậy.

Vua nghe vậy nhưng chưa tin, liền rút chiếc nhẫn đeo tay của mình ném xuống đất. Chiếc nhẫn va vào đất phát ra tiếng, Vua mới tin đó là đất báu ma ni.

Vua Tần Bà Sa La vào nhà, ngồi trên Tòa Sư Tử, vợ của trưởng giả ra bái chào Vua, bỗng nhiên rơi nước mắt.

Vua hỏi: Trưởng giả, vì sao vợ ông thấy ta lại rơi nước mắt?

Trưởng giả tâu: Đại Vương! Vợ tôi bái chào Vua, đâu dám rơi nước mắt. Do vì Vua mặc áo có hơi khói củi nên mắt cay mà chảy nước mắt. Đại Vương, vậy nên người hưởng phước Trời muốn ăn uống gì đều có báu như ý, tự nhien hiện ra.

Vua Tần Bà Sa La ở nhà trưởng giả đã bảy ngày, quên trở về cung điện.

Khi ấy, các quan đồng liêu cùng đến chỗ Thái Tử A Xà Thế tâu: Đã bảy ngày Vua ở nhà của trưởng giả Quang Minh. Việc triều chính trong nước bị bỏ bê. Thái Tử nên đến mời Vua trở về cung.

Thái Tử A Xà Thế liền đến nhà trưởng giả Quang Minh, tâu với Vua cha: Sao Phụ Vương không trở về cung?

Việc lớn trong nước đã bị bỏ bê.

Vua nói: Ta ở một ngày nơi nhà này, việc trong nước ngươi há không thể làm thay ta sao?

Thái Tử tâu: Phụ vương nên biết, đã bảy ngày ở nhà này rồi.

Vua nghe nói, nhìn trưởng giả Quang Minh, hỏi: Có thật vậy không?

Trưởng giả tâu: Đúng vậy, thưa Đại Vương, đã qua bảy ngày rồi.

***