Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại

PHẬT THUYẾT

KINH NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI

QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
 

PHẦN SÁU
 

Ma Vương lập tức tay trái cầm cung, tay phải cầm tên hét lớn bảo Bồ Tát: Người thuộc dòng Sát Đế Lợi, chết thật oan uổng, sao không mau rời khỏi đây, lên ngôi Chuyển Luân Vương, bỏ con đường xuất gia, thực hành bố thí sẽ được sinh lên Trời hưởng Thiên lạc, đó là đạo cao nhất, hơn cách tu tập này.

Người là dòng dõi Vua Chuyển Luân mà lại đi làm khất sĩ, thật không xứng đáng. Nay nếu không đứng dậy thì ngồi yên mà hủy bỏ lời thệ nguyện.

Với người, ta chỉ cần bắn một mũi tên. Các Tiên Nhân khổ hạnh chỉ nghe tiếng cung tên của ta không người nào không kinh hồn, khiếp sợ, hoảng loạn, mất hết tinh thần. Huống chi Cù Đàm, người sao chịu nỗi những mũi tên độc này. Nếu mau đứng lên sẽ được an toàn.

Ma Vương dùng lời đe dọa Bồ Tát nhưng Bồ Tát vẫn an nhiên không chút kinh động. Ma Vương liền phóng tên và đưa Ma Nữ đến. Khi ấy Bồ Tát mắt không nhìn nhưng những mũi tên ấy bỗng dừng lại ở khoảng không, mũi tên rơi xuống đất hóa thành những đóa sen.

Lúc ấy ba nàng Ma Nữ liền nói với Bồ Tát: Nhân giả là bậc đức cao, Trời người đều kính trọng nên cần có người hầu hạ. Chúng tôi nay tuổi còn trẻ, những Thiên Nữ xinh đẹp nhất cũng không hơn được chúng tôi. Nay Trời sai chúng tôi đến để ngày đêm hầu hạ Bồ Tát.

Bồ Tát nói: Các ngươi nhờ có trồng ít phước đức nên được sinh lên Trời lại không nhớ nghĩ đến vô thường mà làm điều mê hoặc.

Thân hình tuy đẹp mà lòng không đoan chính, tâm nhiều dục vọng bất thiện, chết ắt bị sa vào ba đường dữ, mang thân cầm thú khó mà thoát nạn. Nay các ngươi có ý muốn làm loạn tâm trí ta, không phải tâm thanh tịnh.

Hãy đi đi! Ta không cần các ngươi. Khi ấy cả ba Ma Nữ bỗng biến thành ba bà lão tóc bạc, da nhăn răng rụng, nước miếng phều phào, gầy trơ xương, bụng to như cái trống, chống gậy lê bước đi, không thể lấy lại hình dáng như cũ.

Ma Vương thấy tâm Bồ Tát quá vững mạnh liền nghĩ: Ngày xưa trong núi Tuyết, ta từng bắn Ma Hê Thủ La làm cho hoảng sợ, đánh mất tâm lành, thế mà nay không làm lay chuyển được Cù Đàm, cung tên và ba đứa con gái của ta cũng đều không lay chuyển được ông ấy làm ta thêm lo rầu giận dữ. ta phải dùng cách khác mới được.

Nghĩ xong Ma Vương dùng lời êm dịu khuyên dụ Bồ Tát: Nếu Ngài không ưa thích thọ hưởng thú vui của cõi người thì nay có thể lên Cung Trời, ta sẽ trao ngôi vị và năm món dục cho Ngài.

Bồ Tát đáp: Trong các đời trước ngươi do tu đối chút hạnh bố thí nên nay được ngôi Tự Tại Thiên Vương. Phước báo ấy cũng có hạn, hết hạn sẽ bị chìm đắm trong ba đường, muốn thoát ra rất khó. Đó là nguyên nhân của tội khổ, chẳng phải điều ta cần.

Ma Vương hỏi Bồ Tát: Quả báo của ta Ngài biết rồi, vậy quả báo của Ngài ai biết?

Bồ Tát đáp: Quả báo của ta chỉ có đất biết. Bồ Tát vừa dứt lời, mặt đất liền rung động sáu cách.

Lúc ấy một vị Địa Thần tay cầm bình bảy báu cắm đầy hoa sen từ đất vọt lên nói với Ma Vương: Xưa kia Bồ Tát đã từng đem đầu, mắt, não, tủy để bố thí cho chúng sinh, máu Ngài đã đổ ra thấm ướt khắp nơi. Đất nước, vợ con, châu báu… Bồ Tát đều đã bố thí, số ấy không thể kể xiết, chí để cầu đạo vô thượng chánh chân. Do đó ngươi nay không nên làm loạn động Bồ Tát.

Ma Vương nghe thế lòng sinh sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Vị Địa Thần liền đảnh lễ Bồ Tát, dâng hoa cúng dường rồi biến mất.

Khi ấy Ma Vương suy nghĩ: Ta đã dùng cung mạnh tên sắt, cả ba con gái ta cũng đã dùng lời êm ái để mê hoặc mà vẫn không thể làm loạn tâm vị Cù Đàm này. Nay ta phải huy động hết tất cả phương tiện và lực lượng quân ma dùng sức mạnh uy hiếp ông ta.

Ma Vương vừa nghĩ xong lập tức quân ma hiện ra đầy cả không trung với hình dáng quái dị. Kẻ thì cầm kiếm, kích, đầu đội đai thọ, tay cầm chày sắt. Cả đoàn mang theo rất nhiều các loại khí giới. Bọn chúng thân người nhưng đầu lại là đầu các loại thú như cá, heo, lừa, ngựa, sư tử, rồng hoặc như gấu, cọp, các loài thú khác.

Có loài nhiều đầu, mỗi mặt một con mắt, hoặc nhiều mắt. Hoặc bụng to thân dài, hoặc ốm trông như không có bụng. Hoặc chân dài gối lớn. Hoặc gót chân to, bắp chân mập. Hoặc móng dài răng nhọn. Hoặc đầu ở trước ngực. Hoặc có nhiều thân mình mà chỉ có hai chân.

Hoặc mặt lớn, mặt ở một bên. Hoặc sắc mặt như tro đất. Hoặc mình phóng khói lửa. Hoặc lỗ tai to như lỗ tai voi trùm cả núi. Hoặc tóc dài lõa thể. Hoặc sắc mặt nửa đỏ nửa trắng. Hoặc môi xệ chấm đất.

Hoặc dưới mặc khố trên mặc áo da cọp, da sư tử, da rắn hoặc rắn quấn quanh người hoặc trên đầu lửa bốc. Hoặc mắt trợn tay quơ. Hoặc đi ngang hoặc nhảy nhót. Hoặc lăn lộn trên không trung. Hoặc chạy bộ la hét… không biết bao nhiêu loài có hình dạng quái ác như thế bao xung quanh như muốn xé xác Ngài.

Hoặc làm bốn phía khói, lửa bốc cháy rực Trời. Hoặc nổi lên âm thanh cuồng loạn, vang động, khắp các hang núi, gió, lửa, khói bụi mờ mịt không thể nhìn thấy gì cả.

Nước trong bốn biển cùng lúc trào dâng. Các chúng Trời, Người, Rồng, Quỷ… theo bảo hộ Bồ Tát đều giận bọn ma chúng đến nỗi máu từ các lỗ chân lông ứa ra.

Các vị Trời ở Cõi Tịnh Cư thiên thấy bọn ma làm rối loạn Bồ Tát nên vì lòng từ bi, sợ chúng làm tổn hại Ngài liền xuống đứng trên hư không quan sát thấy vô số vô lượng quân ma vây quanh Bồ Tát gầm rú, kêu gào thật hung tợn làm vang động Trời Đất, nhưng Bồ Tát vẫn ngồi bất động, gương mặt không đổi sắc, khác nào sư tử ở giữa đàn nai nên đều cất lời khen ngợi: Ôi thật là kỳ diệu! Chưa từng thấy bao giờ!

Bồ Tát chắc chắn sẽ thành Chánh Giác. Ma quân khi ấy gấp rút đem hết lực lượng đến phá Bồ Tát. Chúng hoặc trợn mắt nghiến răng, hoặc bay nhảy loạn xạ ngang qua trước Bồ Tát, nhưng Bồ Tát xem chúng như trẻ con đùa giỡn.

Ma Vương càng giận dữ gia tăng sức phá phách, Bồ Tát lấy sức từ bi khiến những kẻ ôm đá không sao nhấc lên được, ôm lên được thì lại không đặt xuống được.

Dao bay, kiếm phóng đều dừng lại ở giữa khoảng không, sấm chớp, mưa lửa đều hóa thành hoa năm sắc. Rồng dữ phun độc, độc ấy biến thành gió thơm. Bao nhiêu thứ dữ nhằm làm hại Bồ Tát nhưng không thể đụng đến Ngài.

Ma Vương có một người chị và một người em tên là Di Già và Ca Lợi, cả hai đều cầm vũ khí là đầu lâu người chết, đến trước Bồ Tát làm nhiều cử chỉ quái dị để làm loạn tâm Ngài.

Toàn bộ chúng ma quân đều hiện thân hình kinh dị muốn khủng bố Bồ Tát, nhưng tất cả đều không động được một sợi lông của người. Ma Vương thấy vậy trong lòng càng uất ức, buồn lo, rầu rĩ.

Lúc ấy trong không trung có vị Thiên Thần tên Phụ Đa ẩn thân và lên tiếng: Ta thấy Đức Mâu Ni tâm ý an tịnh, hỷ xả, không chút oán hận. Chúng quân ma khởi lên lòng thâm độc phá hoại mà Ngài vẫn không oán hờn. Các loại quỷ ác ngu ngốc, chúng ngươi chỉ tự làm mình mệt nhọc, hoàn toàn không được lợi gì cả.

Nay nên bỏ tâm giận dữ toan phá hoại Ngài bởi vì miệng các ngươi dù có thể thổi lay động núi Tu Di, có thể làm cho lửa lạnh đi, nước nóng lên, đất cứng bị mềm nhão, nhưng các ngươi không thể hại bậc Bồ Tát đã trải qua nhiều kiếp tu tập thiện quả, thiền định chân chánh, tinh cần tu hành các pháp môn, nên trí tuệ an tịnh, sáng suốt, bốn công đức ấy không thể diệt trừ được.

Nếu không trải thân qua vô lượng khổ khó ấy thì không thể đạt được quả Chánh Giác. Như ngàn mặt trời soi sáng tất diệt hết bóng tối, dùi cây được lửa, đào đất được nước, chăm lo tu tập các pháp thì có thể đạt được điều mong muốn.

Chúng sinh ở đời đang bị chìm đắm trong ba độc không có người cứu vớt.

Vì lòng từ bi, Bồ Tát tìm thuốc trí tuệ vì đời mà trị bệnh, các ngươi sao lại quấy phá như vậy?

Chúng sinh trong thế gian mê mờ, phiền não, vô trí, tà kiến.

Nay Ngài mở bày pháp nhãn, dắt dẫn chúng sinh để họ tu tập theo chánh đạo, sao các ngươi lại quấy rối bậc Đạo Sư?

Đó là điều không thể làm được, giống như nơi đồng trống mà xem thường người dẫn đường.

Chúng sinh bị rơi vào đêm tối mờ mịt, hoang mang không biết đường nơi đâu, Bồ Tát vì họ mà thắp đèn trí tuệ lớn, các ngươi sao lại muốn thổi tắt đi?

Chúng sinh bị chìm đắm trong bể sinh tử, Bồ Tát vì họ mà tạo thuyền trí tuệ sao các ngươi lại muốn làm cho thuyền đắm?

Bồ Tát lấy nhẫn nhục làm mầm, tâm kiên định làm rễ, dùng chánh pháp vô thượng để đạt quả vị Phật Đà, sao các ngươi lại chặt phá?

tham, sân, si trói buộc chúng sinh, Bồ Tát tu tập khổ hạnh vì muốn giải thoát cho họ.

Hôm nay Ngài quyết định ngồi kiết già thiền định nơi cội cây này để thành đạo Vô Thượng, nơi ấy chính là tòa Kim Cang của Chư Phật quá khứ, các vùng đất khác dù rung chuyển nhưng vùng đất ấy vẫn không rung động. Ngài đã nhập vào định nhiệm mầu, chẳng người nào có thể lay chuyển được.

Ma Vương, ngươi phải sinh lòng vui mừng, dứt tâm kiêu căng, sửa đổi suy nghĩ để phụng sự Ngài.

Ma Vương nghe những lời ấy, lại thấy Bồ Tát vẫn điềm nhiên nên xấu hổ không còn lòng kiêu mạn, theo lời khuyên trở về cung ma. Chúng quân ma tan rã, lòng đầy buồn bã, khốn khổ, không còn chút uy vũ nào, khí giới bỏ rơi ngổn ngang khắp rừng núi.

Khi ác ma đi rồi, Bồ Tát tâm yên tĩnh, vắng lặng không động. Trên Trời không một bóng mây, gió ngừng thổi, vầng tịch dương cuối ngày như sáng lên gấp bội, bóng nguyệt hằng vừa ló dạng nhẹ soi khắp nơi, các chòm sao Trời như rực rỡ hẳn, tất cả mọi thứ u ám, tối tăm không còn làm trở ngại.

Trên Hư Không, Chư Thiên tung hoa đẹp xuống như mưa, tấu nhạc cúng dường Bồ Tát.

Vào đêm mồng bảy tháng hai, Bồ Tát dùng sức từ bi hàng phục Ma Vương xong liền phóng hào quang lớn và nhập định suy nghĩ về chân lý.

Từ trong các pháp thiền định tự tại, Bồ Tát biết được trong vô lượng kiếp ở quá khứ, bỏ thân mạng ở chỗ này sinh đến chỗ kia và đã tạo những nghiệp thiện ác gì, cha mẹ họ hàng, giàu nghèo, sang hèn, thọ yểu và tên họ như thế nào đều biết rõ.

Sau đó Bồ Tát liền khởi lòng đại bi đối với chúng sinh suy niệm: Tất cả chúng sinh không có người cứu vớt nên luân hồi trong năm đường không biết bến đâu. Năm đường ấy đều giả dối, không chân thật, thế mà chúng sinh ở trong ấy cứ mãi đùa giỡn trong khổ lạc. Bồ Tát nghĩ như thế cho đến hết canh một.

Vào lúc giữa đêm, Bồ Tát đạt được thiên nhãn minh. Bồ Tát xem xét mọi việc trong thế gian đều thấy rất rõ ràng như tự thấy hình dung mình trong gương.

Ngài thây vô số chúng sinh với nhiều chủng loại, chết ở đây sinh ở kia, tùy theo nghiệp thiện ác mà thọ quả báo khổ vui, thấy chúng sinh bị trừng phạt trong địa ngục như đổ nước đồng sôi vào miệng, hoặc ôm cột đồng nóng đỏ, hoặc nằm giường gai, hoặc bị rang đốt trong chảo sắt, hoặc bị nướng trên lửa.

Hoặc bị cọp beo, lang sói ăn thịt, có người nấp dưới bóng cây để trốn lửa nhưng những lá cây khi rụng xuống lại biến thành đao kiếm cắt đứt thân thể, hoặc bị cưa búa cưa chặt tứ chi, hoặc bị ném vào dòng sông lửa đầy tro bụi, hoặc bị ném vào hầm phân uế… chịu bao nhiêu thứ khổ nhưng do nghiệp báo phải chết đi sông lại để chịu cảnh ấy.

Bồ Tát thấy những hình phạt ấy rồi, quán niệm: Những chúng sinh ấy vốn vì cái vui ở thế gian nên tạo các nghiệp ác, nay gặp quả báo thật là đau khổ. Nếu người nào thấy được quả báo như thế thì sẽ không có ý làm việc ác.

Bồ Tát lại xem xét cõi súc sinh, thấy rõ các loại súc sinh tùy theo giống loài mà phải mang những hình dáng xấu xa, có loài xương thịt, gân sừng, răng lông bị người giết thịt hay bắt chuyên chở nặng nề, đói khát thiếu thôn không ai biết đến, hoặc bị xỏ mũi, hoặc bị cột đầu, thường cung cấp thịt cho người, lại cùng đồng loại ăn thịt lẫn nhau, chịu bao nhiêu nỗi khổ như thế.

Bồ Tát thấy thế sinh tâm đại bi liền nghĩ: Những chúng sinh ấy luôn phải lấy thân thể, sức lực để phục vụ cho con người và còn bị đánh đập đói khát thống khổ đều do bao nghiệp dữ nên chịu quả báo như thế.

Bồ Tát lại xem xét tiếp cõi ngạ quỷ, thấy chúng thường ở những nơi tối tăm, chưa từng thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng và cũng không trông thấy nhau, phải mang thân thể lớn dài, bụng to như Thái Sơn nhưng cổ lại nhỏ như cây kim, trong miệng thường có lửa bốc cháy, luôn luôn bị đói khát hành hạ đến ngàn muôn vạn năm không nghe được tiếng ăn.

Nếu gặp Trời mưa thì hạt nước biến thành hạt ngọc lửa, nếu vào nơi sông biển ao hồ thì thấy nước biến thành nước đồng sôi, tro bụi mịt mù, thân thể cử động bước đi tạo ra tiếng như người kéo năm trăm cỗ xe, từng đoạn thân thể đều có lửa đốt.

Bồ Tát thấy ngạ quỷ chịu bao nhiêu điều khổ như thế nên khởi tâm đại bi suy nghĩ: Những chúng sinh đó vốn có tính keo bẩn, chỉ lo chứa của cải, không biết bố thí nên nay phải chịu những tội báo này. Nếu người nào thấy được nỗi thống khổ ấy chắc sẽ phát tâm bố thí, không còn keo kiệt. Nếu như không có tài sản, họ cũng phải cắt thịt bố thí.

Bồ Tát lại quan sát ở nhân gian, thấy con người bắt đầu từ thân trung ấm theo dục mà vào thai, cha mẹ hòa hợp do niệm điên đảo sinh ra tâm ái, tức là lấy điều bất tịnh làm thân mình. Khi đã vào thai ở trong bụng mẹ, thân thể bị đun nóng như nỗi khổ ở địa ngục, đến đủ mười tháng mới sinh ra.

Lúc mới sinh, được người khác bồng ẵm, xúc chạm thô rít nên đau đớn, thống khổ như bị đao gươm châm chích, chẳng bao lâu lại đến già chết, rồi lại sinh ra làm trẻ con … cứ thế trôi lăn trong năm nẻo không thể tự tỉnh.

Sau khi nội quán, Bồ Tát khởi tâm đại bi, suy nghĩ: Tất cả chúng sinh đều có nỗi khổ như thế nhưng tại sao họ cứ ở trong cảnh ấy tham đắm các món dục cho đó là vui, không thể dứt trừ nguồn cội điên đảo.

Cuối cùng Bồ Tát quán sát Cõi Trời, thấy các vị Thiên Tử thân thể trong sạch, không bị bụi nhơ, như ngọc lưu ly sáng láng, đôi mắt sạch trong không bụi.

Có vị trụ ở đỉnh núi Tu Di, hoặc ở bốn phía núi Tu Di, hoặc ở giữa hư không, lòng thường vui vẻ không có mối lo, thường tấu nhạc Trời để làm vui, không biết ngày đêm, khắp nơi bốn phương nơi nào cũng tuyệt diệu.

Bồ Tát thấy Chư Thiên ở phương Đông mê đắm nhiều năm, quên sự chuyển đời, Chư Thiên ở phương Tây cũng mãi mê thọ lạc, ngày qua tháng lại không nghĩ đến việc thác sinh, các phương Nam, phương Bắc đều như thế. Ăn uống, áo quần hễ nghĩ tới là có ngay. Tuy có những điều vừa ý như thế nhưng cũng bị lửa dục nung nấu.

Đến lúc phước ở Cõi Trời hết thì năm tướng chết hiện ra: Một là hoa trên đầu héo, hai là mắt nháy, ba là ánh sáng trên thân không còn, bốn là dưới nách mồ hôi xuất, năm là tự nhiên rời khỏi tòa ngồi của mình.

Các quyến thuộc nhìn thấy năm tử tướng ấy hiện ra sinh tâm quyến luyến. Vị Thiên Tử ấy tự thấy thân mình hiện năm tử tướng lại thêm các quyến thuộc quyến luyến nên ngay khi đó sinh lòng đau khổ.

Bồ Tát thấy các Thiên Tử như vậy nên khởi tâm đại bi suy nghĩ: Các vị Thiên Tử vốn tu tập ít điều thiện nên được thọ hưởng lạc thú Cõi Trời nhưng khi sắp hết phước cũng vẫn sinh khổ não, mạng chung bỏ thân Trời vẫn có thể đọa vào ba đường ác.

Mục đích tu là để cầu quả báo vui, nhưng họ được rồi lại vẫn ít vui nhiều khổ, giống như người đói ăn thức ăn độc, trước có thể ngon miệng nhưng sau đó là tai họa.

Bậc trí lại ham cái vui ấy sao?

Chư Thiên ở Cõi Sắc và Vô Sắc Giới thấy thọ mạng lâu dài liền cho là có vui lâu dài, đến khi thấy tướng suy hoại cảm thấy đau khổ, sinh ra tà kiến phỉ báng, cho là không có nhân quả vì thế mà bị trôi lăn trong ba đường chịu đủ mọi nỗi khổ.

Bồ Tát dùng Thiên nhãn xem khắp năm đường khởi tâm từ bi suy nghĩ: Trong ba cõi không một chút vui suy nghĩ như thế đến tận nửa đêm.

Sang canh thứ ba, Bồ Tát xem xét chúng sinh do nhân duyên gì mà có già chết?

Và biết rõ chính do có sinh nên có già chết, nếu xa lìa sinh thì không có già chết.

Lại hiện tượng sinh ấy không phải từ Trời sinh xuống, không phải tự nhiên sinh mà do từ nhân duyên sinh ra. Do tham dục với sắc và vô sắc nên sinh ra nghiệp. Bồ Tát lại quán nghiệp trong tam hữu từ đâu sinh, liền biết từ bốn thủ sinh ra.

Cứ thế Bồ Tát nội quán thấy rõ bốn thủ từ ái sinh, ái từ thọ sinh, thọ từ xúc sinh, xúc từ lục nhập sinh, lục nhập do danh sắc sinh, danh sắc từ thức sinh, thức từ hành sinh, hành từ vô minh sinh ra.

Nếu diệt được vô minh thì diệt được hành, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết, lo buồn, sầu thương diệt.

Cứ như thế Bồ Tát nội suy, quán niệm mười hai nhân duyên theo hai chiều thuận, nghịch đến canh ba thì phá được vô minh, vầng thái dương vừa hiện, Bồ Tát tìm được ánh sáng trí tuệ, tâm đoạn trừ hoàn toàn tập khí phiền não chướng ngại và thành Bậc Nhất Thiết chủng trí.

Khi ấy Như Lai suy nghĩ về tám Thánh đạo chân chánh, là con đường mà ba đời Chư Phật đã đi để đến Niết Bàn, nay Ngài đã thể đạt được, thành tựu trí tuệ vô ngại.

Lúc ấy toàn mặt đất hiện ra mười tám tướng chấn động, khắp nơi đều sạch trong, không có một mảy bụi trần, trống Trời tự phát ra tiếng, gió thơm thổi lên êm ái mát mẻ, mây lành nhiều sắc tuôn mưa Cam Lộ, hoa quả ở trong các khu lâm viên bỗng nẩy lộc, kết trái dù không phải mùa.

Từ Trời cao rơi xuống các loại hoa quý như hoa Mạn Đà La, Đại Mạn Đà La, Mạn Thù Sa và Đại Mạn Thù Sa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly… Hoa sen bằng bảy báu phủ đầy quanh cây Bồ Đề đến ba mươi sáu dotuần.

Cùng lúc đó Chư Thiên tấu Thiên nhạc, đốt hương, ca hát, khen ngợi, tay cầm bảo cái, tràng phan hiện ra đầy khắp hư không mà cúng dường Đức Như Lai. Tám Bộ Chúng, Rồng, Thần… đều cúng dường như thế.

Ngay lúc ấy tất cả chúng sinh đều khởi lòng từ yêu thương, không có ý tưởng giận dữ làm hại, vui mừng phấn chấn như thấy được Thánh tích, không sợ hãi mà ôn hòa, không kiêu căng, không keo kiệt, ganh tị dối trá.

Các Thiên Tử ở Cõi Trời Ngũ Tịnh Cư, nơi đã xa lìa các trạng thái tâm hỷ lạc cũng đều vui mừng không kiềm chế được. Nỗi thống khổ ở địa ngục tạm thời giảm bớt, chúng sinh ở cõi đó đều khởi sinh niệm hoan hỷ, tất cả loài súc sinh hay ăn thịt nhau bỗng không còn lòng ác, ngạ quỷ no đủ không còn đói khát.

Những nơi u ám của Thế Giới, nơi mặt trời, mặt trăng chưa bao giờ chiếu tới nay bỗng sáng tỏ, chúng sinh trong các cõi ấy thấy được nhau đều thắc mắc tại sao nơi đây bỗng nhiên có chúng sinh.

Vị Pháp Vương Đại Thánh xuất hiện khai sáng cho đời, dùng ánh sáng chánh pháp phá bỏ màn phi pháp u tối, làm cho mọi nơi đều sáng rỡ.

Vương Tổ Cam Giá bỏ ngôi học đạo đạt được ngũ thông, do tu thập thiện nên được sinh lên Trời, lúc ấy cũng dùng thần thông đến bên cội Bồ Đề, từ hư không vui mừng chắp tay khen ngợi: Trong dòng họ Cam Giá của chúng ta, có người diệt được phiền não thành bậc nhất thiết chủng trí, làm con mắt cho thế gian.

Thật là lạ lùng đặc biệt! Tất cả chúng sinh đều hoan hỷ tột độ, chỉ có Ma Vương là ôm lòng phiền muộn.

Bấy giờ Đức Như Lai trong bảy ngày vẫn ngự tại cội Bồ Đề tư duy nội quán: Ta ở tại đây diệt hết phiền não, những việc phải làm đã làm xong, bản nguyện hoàn thành. Pháp mà ta chứng được thật là vi diệu, chỉ có Phật và Phật mới hiểu được.

Toàn thể chúng sinh trong đời ngũ trược bị che khuất bởi tham muốn, giận dữ, ngu si, tà kiến, kiêu mạn, dua nịnh, phước đức mỏng manh, căn trí trì độn, không có trí tuệ làm sao có thể hiểu được pháp mà ta đã chứng.

Nếu nay ta vì họ mà chuyển pháp luân chắc họ sẽ mê mờ, nghi ngờ, không thể tin theo rồi sinh chê bai mà bị sa vào đường ác chịu bao thống khổ, vậy ta nên yên lặng mà vào Niết Bàn.

Khi đó Đức Như Lai nói kệ:

Đường Thánh thật khó đi

Quả trí tuệ khó đạt

Ta trong khó khăn ấy

Mọi việc làm đã xong

Trí tuệ ta đạt được

Là vi diệu đệ nhất

Tánh chúng sinh trì độn

Chìm đắm trong mê mờ

Trôi theo dòng sinh tử

Không thể trở về nguồn

Các loài đều như thế

Làm sao cứu vớt được.

Bấy giờ vị Đại Phạm Thiên thấy Như Lai đã chứng Thánh Quả mà yên lặng không chuyển pháp luân, lòng buồn rầu suy nghĩ: Thế Tôn đã từng vô lượng kiếp vì chúng sinh ở lâu dài trong sinh tử, lìa bỏ ngôi vị, vợ con, cho đến đầu, mắt, não, tủy, chịu bao khổ sở, nay nguyện đã thành, chứng Bậc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, sao lại lặng yên không chuyển pháp luân, nếu thế chúng sinh sẽ phải chìm mãi trong biển sinh tử. Ta nay phải đến cầu xin Phật chuyển pháp luân.

Nghĩ thế rồi, vị Phạm Thiên rời Thiên Cung đến chỗ Đức Như Lai nhanh như khoảng thời gian một lực sĩ co duỗi cánh tay.

Đến nơi, Phạm Thiên Cung kính chắp tay, lễ xuống chân Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi ngồi sang một bên chắp tay, quỳ bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, Ngài từ xưa đến nay từng ở mãi trong sinh tử bỏ cả thân đầu mắt để bố thí, chịu bao nỗi khổ, chỉ vì chúng sinh mà tu tập tất cả đức hạnh, nay đã thành đạo, sao Ngài lại lặng yên không chuyển pháp luân.

Chúng sinh đang chìm trong đêm dài sinh tử, rơi vào vô minh, thật khó biết khi nào ra khỏi, nhưng cũng có chúng sinh trong đời trước được gần gũi bạn lành, vun trồng các công đức nên có thể nghe pháp, nhận lãnh đạo Thánh, vậy xin Thế Tôn thương xót hãy vì những chúng sinh đó màchuyển pháp luân

Trời Đế Thích và Trời Tha Hóa Tự Tại cũng đến khuyến thỉnh Như Lai hãy vì chúng sinh mà chuyển pháp luân.

Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo các vị Thiên Vương: Ta cũng muốn vì tất cả chúng sinh chuyển pháp luân, nhưng chỉ vì pháp mà ta chứng được vô cùng vi diệu, sâu xa, khó hiểu khó bàn, chúng sinh thật khó có thể tin và vâng theo, lại sinh lòng phỉ báng mà phải sa vào địa ngục. Ta nay vì thế mà yên lặng.

Trời Phạm Thiên và Đế Thích phải ba lần khuyến thỉnh, đến hết ngày thứ bảy, Phật mới yên lặng nhận lời. Chư Thiên biết Phật đã nhận lời liền cúi lạy xuống chân Phật rồi trở về Thiên Cung.

Sau khi nhận lời khuyến thỉnh của Phạm Thiên và Đế Thích, Thế Tôn liền dùng Phật nhãn quán sát, thấy rõ chúng sinh có ba bậc thượng căn, trung căn và hạ căn. Các phiền não cũng có ba loại thượng, trung và hạ.

Quán sát như thế cho đến mười bốn ngày, Phật lại nghĩ: Ta nay sắp mở cửa cam lộ nhưng ai xứng đáng là người đầu tiên được nghe pháp?

Tiên Nhân A La La là người thông tuệ, có thể hiểu được giáo pháp này. Vị ấy từng nguyện là nếu ta thành đạo thì độ ông ta trước.

Thế Tôn vừa nghĩ như thế thì trong không trung có tiếng: Tiên Nhân A La La vừa qua đời đêm hôm qua.

Đức Thế Tôn đáp: Ta cũng đã biết đêm qua ông ấy qua đời.

Phật lại nghĩ: Tiên Nhân Ca Lan căn tánh lanh lợi, có thể hiểu được giáo pháp của ta, xứng đáng được nghe pháp trước tiên.

Trong không trung lại có tiếng nói: Tiên Nhân Ca Lan cũng đã vừa qua đời đêm hôm qua.

Thế Tôn cũng đáp như trước rồi Ngài lại nghĩ: Năm anh em Kiều Trần Như theo lệnh Quốc Sư và quan Đại Thần ở lại chăm nom, hầu hạ ta, đều là những người thông minh. Ngoài ra trong đời quá khứ, họ đã phát nguyện với ta là mong được nghe pháp trước tiên, ta nay nên vì năm người này mà mở cửa chánh pháp.

Lại nghĩ: Chư Phật quá khứ chuyển pháp luân đều tại vườn Lộc Dã, trụ xứ của các vị Tiên Nhân, thuộc nước Ba La Nại, năm người kia cũng cư trú nơi ấy. ta nay nên đến đó chuyển đại Pháp Luân. Nghĩ thế rồi, Thế Tôn đứng dậy đi đến nước Ba La Nại.

Bấy giờ có năm trăm người lái buôn do hai vị thương chủ là Bạt Đà La Tư Na và Bạt Đà La Đề dẫn đầu đang đi qua cánh đồng trống. Một vị Thiên Tử hiện đến nói với họ: Có Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện, khai hóa cho đời, là ruộng phước cao quý bậc nhất. Các người nên đến trước Ngài cúng dường.

Vị thương chủ nghe vị Thiên Tử nói như thế, mừng rỡ khen ngợi và hỏi: Lời dạy ấy thật là tốt lành!

Đức Thế Tôn giờ ở nơi đâu?

Vị Thiên Tử đáp: Không lâu nữa, Thế Tôn sẽ đi ngang qua đây. Lúc ấy Như Lai có vô số Chư Thiên hộ tống đến thôn Sa bạt lợi. Hai người lái buôn thấy Đức Như Lai tướng mạo uy nghi trang nghiêm, lại thấy Chư Thiên vây quanh trước sau hộ tống nên lòng càng vui mừng bèn dùng mật ong và đường dâng lên cúng dường Phật.

Lúc ấy Thế Tôn nghĩ: Chư Phật trong quá khứ dùng Bát Đa La để đựng thức ăn. Bốn vị Thiên Vương biết ý nghĩ của Phật nên mỗi vị đem một cái bát đến dâng cho Phật.

Đức Thế Tôn nghĩ: Nếu ta nhận bát của một vị thì các vị kia sẽ không vui nên Ngài nhận hết và đặt bốn cái bát lên nhau, dùng bàn tay ấn xuống thành một bát, bốn cạnh bát hiện lên rất rõ.

Thế Tôn chú nguyện: Nay các ông cúng dường các món này, mong ta dùng xong sẽ tăng khí lực, ta cũng chú nguyện cho các ông được sức khỏe, bền tâm, vui vẻ, an lạc, yên ổn không bệnh tật, sống lâu và được thiện thần phù hộ.

Do cúng dường trai thực sẽ dứt được gốc rễ ba độc, tương lai sẽ đạt tam kiên pháp, thông minh trí tuệ, hết lòng tin tưởng Phật Pháp, sinh ra ở đâu cũng đều có chánh kiến, không mê muội.

Trong hiện tại cha mẹ vợ con, quyến thuộc thân thích đều sum vầy, không có những chuyện quái lạ, chẳng lành xảy ra, người trong gia đình có ai làm ác mà đọa vào đường dữ sẽ do phước báo bố thí này được sinh trong cõi người, Cõi Trời, không khởi tà kiến, tiến tu công đức, thường được ở gần Chư Phật Như Lai, được nghe pháp nhiệm mầu, chứng được chân lý đầy đủ như ý nguyện.

Đức Thế Tôn chú nguyện xong mới thọ thực.

Sau khi thọ thực, rửa tay và bát xong, Ngài truyền pháp tam quy cho các thương gia: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng Già ở tương lai. Trao truyền pháp tam quy xong, Đức Phật từ giã đi tiếp đến vườn Lộc Dã, với oai nghi đĩnh đạc thanh thoát giống như Nga Vương. Trên đường, Phật gặp một người ngoại đạo tên là Ưu Bà Già.

Vị ngoại đạo ấy thấy tướng tốt trang nghiêm, các căn tĩnh lặng của Phật cho là điều kỳ diệu nên nói kệ khen ngợi:

Chúng sinh ở thế gian

Đều bị ba độc trói

Các căn lại phóng dật

Bị ngoại cảnh cuốn lôi

Nhưng nay thấy nhân giả

Các căn thật vắng lặng

Ắt đạt đạo giải thoát

Chắc thế không còn nghi

Thầy nhân giả là ai?

Tên họ gọi là gì?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Ta nay đã vượt thoát

Khỏi cảnh giới chúng sinh

Pháp vi diệu sâu xa

Ta nay đã biết hết

Ba độc và năm dục

Đoạn hẳn không còn nữa

Như hoa sen trong bùn

Không nhiễm nước bùn hôi

Tự chứng Bát chánh đạo

Không thầy không bạn bè

Dùng trí tuệ thanh tịnh

Hàng phục được Ma Vương

Nay đạt đạo Chánh Giác

Xứng là thầy Trời người

Thân miệng ý toàn tịnh

Nên hiệu là Mâu Ni

Muốn đến  Ba La Nại

Để chuyển chánh pháp luân

Điều mà Trời người, ma

Không sao giảng nói được.

Ưu Bà Già nghe bài kệ xong, lòng sinh vui mừng khen là chưa từng có, chắp tay cung kính nhiễu quanh Thế Tôn, từ biệt ra đi. Đi một đoạn, Ưu Bà Già còn quay lại nhìn, không thấy Thế Tôn nữa mới đi hẳn.

Đức Thế Tôn đi tiếp đến bờ sông A Xà Ba La thì Trời đã chiều tối nên phải dừng chân nghỉ rồi ngồi nhập định suốt bảy ngày trong mưa gió.

Tại dòng sông ấy, có vị Long Vương tên Mục Chân Lân Đà thấy Phật nhập định liền dùng thân quấn quanh Phật bảy vòng suốt trong bảy ngày.

Sau bảy ngày vị ấy liền biến thành hình người cúi đầu lễ dưới chân Phật thưa: Thế Tôn ngồi ở đây suốt trong bảy ngày không ngại Trời mưa gió sao?

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Chư Thiên và người đời

Vui thích trong ngũ dục

So với vui thiền định

Không thể nào sánh bằng.

Long Vương nghe lời kệ của Phật vui mừng hớn hở cúi đầu lễ xuống chân Phật rồi trở về Long Cung. Đức Thế Tôn lại tiếp tục đi đến thành Ba La Nại, chỗ của năm vị Kiều Trần Như, Ma Ha Na Ma, Bạt ba, A Xá Bà Xà, Bạt Đà La Xà cư trú.

Năm người ấy thấy Phật từ xa đang đi đến liền bàn với nhau: Sa Môn Cù Đàm bỏ lối tu khổ hạnh, thoái thân trở lại thọ hưởng thú vui ăn uống không còn tâm đạo nữa. Nay ông ta đến đây chúng ta không cần đứng lên tiếp đón, cũng không làm lễ kính, thăm hỏi. Nếu ông ấy muốn cần một chỗ ngồi thì cứ tự ý chọn chỗ để ngồi.

Nói xong, họ đều yên lặng nhưng khi Phật đến gần thì năm người tự động đứng dậy lạy chào, vội vàng cung kính tiếp đón, làm những việc như lúc trước, người tiếp đỡ y bát, người lấy nước rửa, người rửa chân cho Phật… ai cũng làm ngược lại những lời đã giao ước, nhưng vẫn như trước, gọi Phật là Cù Đàm.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi anh em Kiều Trần Như: Các người cùng đồng ý với nhau là gặp ta không đứng dậy, nay sao lại trái với lời hẹn ước, vội đứng dậy tiếp đón hầu hạ ta?

Năm người nghe hỏi trong lòng hổ thẹn liền thưa: Cù Đàm đi đường có mỏi mệt không?

Thế Tôn hỏi: Sao các người đối với Bậc Vô Thượng Tôn lại gọi tên họ như thế?

Lòng ta tuy không chấp trách sự hủy báng hay khen ngợi, không có tâm phân biệt nhưng các người kiêu căng sẽ chuốc lấy quả báo dữ. Ví như đối với lễ nghi ở thế gian, con còn không thể gọi cha mẹ bằng tên, huống chi ta nay là cha mẹ của tất cả.

Cả năm vị nghe những lời dạy ấy lại càng hổ thẹn, thưa với Phật: Chúng con ngu si không trí tuệ, không biết nay Ngài đã thành Chánh Giác.

Vì sao?

Vì trước kia thấy Như Lai tu khổ hạnh sáu năm, ngày ăn một hạt gạo, một hạt mè mà nay trở lại hưởng thú vui ăn uống. Do đó chúng con tưởng Phật chưa đạt đạo.

Phật bèn nói với năm người: Các ông chớ dùng trí nhỏ để đo lường đạo ta thành hay chưa thành đạo.

Vì sao?

Vì khi thân xác khổ thì tâm loạn, thân vui sướng thì lòng sẽ say đắm. Do đó khổ và vui, cả hai đều không phải là nguyên nhân thành đạo, chẳng khác gì dùi cây lấy lửa, lại đặt khúc cây trong nước mà dùi thì chắc chắn không có lửa để soi sáng.

Tìm lửa trí tuệ cũng vậy, có nước của khổ vui thì ánh sáng của lửa trí tuệ không sinh, vì lửa trí tuệ không sinh nên không thể diệt trừ được màn đen tối của sinh tử.

Nay nếu bỏ được khổ và vui, tu tập theo trung đạo thì tâm sẽ an định, có thể lĩnh hội tu tập theo tám Thánh đạo chân chánh, xa rời mối lo sinh, già, bệnh, chết. Chính ta đã tu tập theo trung đạo nên đạt quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Năm người ấy nghe Như Lai dạy như thế lòng rất vui mừng, vô cùng phấn chấn, nhìn ngắm dung nhan của Phật không rời.

Khi ấy Đức Thế Tôn xét thấy căn tánh của năm vị nhóm ông Kiều Trần Như có thể nhận hiểu được đạo pháp nên dạy: Này Kiều Trần Như, các ông nên biết, thân năm ấm này là khổ, sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, yêu thương mà xa nhau là khổ, căm ghét mà gặp nhau là khổ, mong mỏi không được cũng khổ, mất đi niềm vui sướng khi vinh hiển là khổ.

Này Kiều Trần Như, chúng sinh hữu hình hay vô hình, không chân, có một chân, hai chân, ba chân, bốn chân hay nhiều chân, không loài nào là không có những nỗi khổ ấy. Ví như lấy tro phủ lên lửa. Nếu gặp cỏ khô, lửa sẽ bốc cháy. Như vậy những nỗi khổ là do gốc chấp ngã mà sinh ra.

Nếu có chúng sinh nào khởi lên niệm tưởng chấp ngã, dù nhỏ nhiệm đến đâu cũng phải chịu những nỗi khổ ấy. Tham dục, giận dữ, ngu si đều do căn bản chấp ngã sinh ra. Lại nữa, ba độc này là nguyên nhân của khổ, ví như hạt giống có năng lực sinh ra mầm mộng, chúng sinh chính vì chúng nên phải luân hồi trong ba cõi.

Nếu diệt được chấp ngã và tham, sân, si thì những nỗi khổ sẽ theo đó đoạn dứt. Tất cả khổ đau phiền não đều do bát chánh đạo đó mà diệt trừ, giống như một người lấy nước rưới tắt lửa lớn. Toàn thể chúng sinh không biết cội rễ của khổ đau, nên đều bị luân hồi trong sinh tử.

Này Kiều Trần Như, khổ cần nên biết, tập phải đoạn trừ, diệt cần nên chứng, đạo cần nên tu.

Này Kiều Trần Như, ta đã biết khổ, đã dứt tập, đã chứng diệt, đã tu đạo nên đã chứng đắc quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Do đó nay các ông cần phải biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu đạo. Nếu ai không tỏ ngộ Tứ Thánh đế ấy thì nên biết người ấy chưa được giải thoát.

Bốn chân lý ấy là chân thật: Khổ chính thực là khổ, tập chính thực là tập, diệt chính thực là diệt, đạo chính thực là đạo.

Này Kiều Trần Như, các ông đã thông suốt chưa?

Kiều Trần Như thưa: Bạch Thế Tôn, chúng con đã hiểu, chúng con đã biết. Vì hiểu rõ Pháp Tứ Đế nên từ ấy ông có hiệu là  A Nhã Kiều Trần Như.

Khi Phật ba lần giảng Pháp Tứ Đế và mười hai hành, Kiều Trần Như thông đạt pháp ấy, tâm xa lìa trần cấu và đắc pháp nhãn thanh tịnh. Cùng lúc ấy, tám vạn Na Do Tha Chư Thiên ở trên không trung cũng xa lìa trần cấu đắc pháp nhãn tịnh.

Vị Địa Thần thấy Đức Như Lai ở nơi khu đất của mình chuyển pháp luân, lòng rất vui mừng, lớn tiếng xướng: Như Lai đã ở nơi đây chuyển pháp luân vi diệu. Tất cả Trời Thần trong hư không nghe được lời ấy sinh tâm phấn chấn, truyền nhau hô lớn vang thấu đến Cõi Trời Sắc Cứu Cánh.

Chư Thiên tại nơi ấy nghe được liền hân hoan vô cùng, cao giọng xướng: Hôm nay, trong vườn Lộc Dã, trú xứ của các Tiên Nhân thuộc thành Ba La Nại, Đức Như Lai đã chuyển đại pháp luân, điều mà tất cả thế gian, Trời, Người, Ma Vương, Phạm Thiên, Sa Môn, Bà La Môn không thể giảng nói được.

Lúc đó toàn mặt đất hiện ra mười tám tướng chuyển động, Tám Bộ chúng Trời, Rồng… ở trên hư không tấu các loại nhạc, trống Trời tự kêu, đốt các danh hương, rải các loài hoa quý, cờ quý, lọng báu cùng ca ngâm khen ngợi, khắp các Cõi trong Thế Giới tự nhiên sáng rỡ. A Nhã Kiều Trần Như do tỏ ngộ chánh pháp đầu tiên nên là vị đệ tử thứ nhất của Phật.

Bốn vị kia thấy Phật chuyển pháp luân xong mà chỉ có A Nhã Kiều Trần Như đắc đạo nên trong lòng nghĩ: Nếu Thế Tôn vì chúng ta nói pháp lại lần nữa, chúng ta cũng sẽ đắc đạo. Nghĩ như thế rồi cùng nhau chiêm ngưỡng Đức Phật không rời. Đức Phật biết tâm niệm của bốn người ấy nên giảng nói lại pháp Tứ Đế. Sau khi nghe xong, họ cũng xa lìa trần cấu, đắc được pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ, sau khi đã thấy chân lý, năm vị liền đảnh lễ Phật, thưa: Bạch Thế Tôn, năm người chúng con đã thấy được chân lý, đã chứng được dấu đạo, nay chúng con muốn xuất gia theo Phật, xin Đức Thế Tôn thương xót nhận.

Đức Thế Tôn liền gọi năm người: Hay lắm các Tỳ Kheo! Râu tóc họ liền tự rụng, khoác Cà Sa trên thân, năm người đều trở thành Sa Môn.

Lúc ấy Thế Tôn hỏi năm vị Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo, các ông cho rằng có biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường, là khổ hay không khổ, là không hay chẳng phải không, là ngã hay vô ngã.

Năm vị Tỳ Kheo vừa nghe lời hỏi về năm ấm ấy xong, các lậu hoặc đều sạch không, tâm thông suốt, chứng được quả A La Hán, liền thưa: Bạch Thế Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Kể từ đó, tại thế gian có sáu vị A La Hán. Đức Phật chính là Phật bảo, Tứ Đế chính là Pháp Bảo, năm vị La Hán ấy chính là Tăng Bảo. Như thế, ba ngôi báu đã đầy đủ, hiện diện ở thế gian, là ruộng phước tốt nhất cho cả Trời Người.

Bấy giờ có chàng trai tên Da Xá, con của một vị Trưởng Giả giàu có nhất trong Cõi Diêm Phù Đề, là người bản tánh thông minh, lanh lợi, thường đội thiên quan, đeo chuỗi anh lạc, đi giầy báu vô giá.

Một hôm, sau khi vui chơi với các kỹ nữ đến khuya, tất cả đều đi ngủ, Da Xá nửa đêm bỗng thức giấc, nhìn thấy các kỹ nữ ngủ say, cô nằm sắp, cô nằm ngửa, tóc tai xổ tung rối bời, nước miếng nhiễu ra, nhạc khí, quần áo và nữ trang rơi vãi lung tung.

Trông thấy cảnh ấy, Da Xá sinh ra chán ngán, suy nghĩ: Ta nay đang ở trong nạn tai bất tịnh, lại tưởng lầm là thanh tịnh. Đang lúc suy nghĩ như thế, do uy lực của Chư Thiên, một luồng ánh sáng rực rỡ hiện ra chói lòa cả không trung, cửa tự nhiên mở, Da Xá theo luồng sáng ấy đi về phía Vườn Lộc Dã.

Khi đến bờ Sông Hằng, Da Xá liền lớn tiếng kêu: Khổ đau thay! Lạ lùng thay!

Phật nghe được liền lên tiếng: Này Da Xá, ngươi hãy sang đây! Nay ở chỗ ta có pháp môn lìa xa đau khổ. Da Xá nghe thế liền cởi đôi giầy quý để lại, lội qua sông đến chỗ Phật. Qua được Sông Hằng, Da Xá bước thẳng đến chỗ Phật.

***