Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật đa

PHẬT THUYẾT

KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

PHẨM BẢY

PHẨM PHỤNG TRÌ
 

Bấy giờ, thấy thần thông biến hóa của Phật, Vua Ba Tư Nặc hiện ngàn đài hoa che phía trên Như Lai. Hoa có ngàn cánh, trên có ngàn hóa thân Phật. Trong ngàn cánh hoa có vô lượng Chư Phật đều nói bát nhã Ba la mật đa.

Vua Ba Tư Nặc thưa: Bạch Thế Tôn! Vô lượng bát nhã Ba la mật đa không thể dùng thức để nhận thức, không thể dùng trí để biết.

Các Thiện Nam Tử làm thế nào để hiểu rõ Kinh này mà đem giảng nói cho người?

Phật dạy: Này Đại Vương! Ngài hãy lắng nghe cho kỹ. Từ lúc mới tu tập nhẫn cho đến Kim Cang định, như pháp tu hành mười ba pháp môn quán đều là Pháp Sư, làm chỗ đứng vững chắc. Đại chúng các ông nên như thật mà cúng dường, đem trăm ngàn vạn ức hoa thơm đẹp để dâng cúng dường.

Này Thiện Nam Tử! Pháp Sư ấy tu tập Bồ Tát thuộc ngôi chủng tánh. Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di tu hành Thập Trụ, gặp Phật Pháp Tăng phát tâm bồ đề, làm lợi lạc thương yêu chúng sanh, tự quán thân mình các căn trong sáu giới tất cả đều là vô thường khổ không vô ngã.

Biết rõ nghiệp hành sanh tử Niết Bàn, làm lợi lạc cho mình và người được lợi ích, an lạc. Nghe ai khen Phật hay hủy báng Phật, tâm định tĩnh, không lay động.

Nghe có Phật hay không có Phật, tâm bình tĩnh không thối lui, không phạm ba nghiệp, khởi sáu hòa kính, dùng phương tiện thiện xảo để thu phục chúng sanh. Siêng năng học mười trí, dùng thần thông hóa hiện lợi ích. Loại phẩm hạ tu tập tám vạn bốn ngàn Ba la mật đa.

Này Thiện Nam Tử! Tu tập nhẫn về trước trải qua mười ngàn kiếp hành hạnh thập thiện, khi lui khi tiến, ví như chiếc lông nhẹ theo gió bay tứ tung.

Nếu đạt đến Địa vị nhẫn thì nhập vào chánh định tụ, không tạo tội năm nghịch, không hủy báng chánh pháp, biết tướng của ngã và pháp đều là không.

Trong một A tăng kỳ kiếp trụ vào ngôi vị giải thoát. Nếu tu tập nhẫn này thì có thể phát sanh hạnh thù thắng. Lại nữa, Bồ Tát thuộc tánh chủng tánh, trụ mà không phân biệt.

Vì tu mười huệ quán nên xả bỏ tài sản và sinh mạng.

Vì giữ giới thanh tịnh nên tâm khiêm hạ.

Vì làm lợi lạc mình và người nên sanh tử không loạn.

Vì sự sâu xa của vô tướng nên thấu đạt có như huyễn.

Vì không mong cầu quả báo nên đắc vô ngại giải.

Vì mỗi niệm thị hiện thần lực của Phật, đối trị bốn điên đảo, ba căn bất thiện.

Vì nghiệp cảm ba đời, mười điên đảo, những tri kiến về ngã nhơn, mỗi niệm mỗi niệm là hư dối, thấu đạt rõ về danh là giả, thọ là giả và pháp là giả, tất cả đều không thể đắc, không có tướng của mình và người, luôn luôn quán một cách chân thật.

Loại phẩm trung: Tu tập tám vạn bốn ngàn Ba la mật đa, ở trong hai A tăng kỳ kiếp tu hành các hạnh thù thắng, đắc được ngôi vị nhẫn kiên cố.

Lại nữa, Bồ Tát ở ngôi vị đạo chủng tánh, trụ trong nhẫn kiên cố, quán các pháp tánh không sanh diệt, dùng bốn vô lượng tâm phá sạch các ám chướng, luôn gặp Chư Phật thực hành hạnh bố thí Ba La Mật một cách rộng rãi, luôn học theo Chư Phật, trụ tâm hồi hướng, những căn lành đã tu tập đều như thật tế.

Với Tam Muội, làm nhiều Phật Sự, hiện đủ loại thân, hành bốn nhiếp pháp, trụ tâm không phân biệt, giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh.

Trí tuệ sáng suốt, quán sát một cách thâm sâu, tất cả hạnh nguyện đều tu tập cả, có thể làm Pháp Sư điều phục các hữu tình, quán hoàn hảo về năm uẩn, ba cõi, nhị đế, không còn tướng mình và người, đạt được tánh như thật. Mặc dù luôn tu tập thắng nghĩa nhưng còn thọ sanh vào ba cõi.

Vì sao?

Vì quả báo do nghiệp huân tập chưa hoại tận gốc, vì ở trong Trời người theo đạo mà thọ sanh.

Loại phẩm thượng: Tu tập tám vạn bốn ngàn Ba la mật đa, ở trong ba A tăng kỳ kiếp tu hai lợi, thực hành rất nhiều sự lợi ích, điều phục được hoàn toàn các Tam Ma Địa, trụ vào sự quán sát một cách thù thắng, tu tập hạnh xuất ly, chứng bình đẳng ngôi vị của Thánh Nhân.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở Hoan Hỷ Địa vượt qua Địa phàm phu, sanh vào nhà Như Lai, trụ trong Bình đẳng nhẫn, trí vô tướng đầu tiên chiếu sáng thắng nghĩa đế, một tướng bình đẳng là phi tướng, vô tướng. Đoạn trừ các vô minh, diệt sạch các tham trong ba cõi, vô lượng đời vị lai vĩnh viễn không còn trở lại dòng sanh tử.

Lấy đại bi làm đầu, khởi các đại nguyện, với trí phương tiện trong mỗi niệm tu tập vô lượng hạnh thù thắng, chẳng phải chứng, chẳng phải không chứng nên học hết tất cả, chẳng phải trụ.

Chẳng phải không trụ vì hướng đến nhất thiết trí, đi trong sanh tử mà không bị quân ma làm kinh động, lìa xa ngã và ngã sở, không còn lo sợ, không có tướng mình và người, luôn giáo hóa chúng sanh, nguyện lực tự tại, sanh vào các Cõi Tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Trí giác đầu tiên này chẳng phải như, chẳng phải trí, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, không có hai tướng, phương tiện diệu dụng chẳng điên đảo, chẳng an trụ, chẳng động, chẳng tịnh, hai lợi tự tại.

Giống như nước với sóng, chẳng phải một chẳng phải khác. Trí sanh các Ba La Mật cũng chẳng phải một chẳng phải khác. Ở trong bốn A tăng kỳ kiếp tu tập đầy đủ trăm vạn hạnh nguyện.

Bồ Tát ở Địa này không còn nghiệp tập trong ba cõi và không tạo nghiệp mới, theo trí lực mà nguyện sanh, trong từng niệm luôn thực hành Đàn Ba la mật đa, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, thanh tịnh bao la, hoàn toàn an trụ làm lợi ích cho chúng sanh.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Ly Cấu Địa thì đạt bốn vô lượng tâm, tối thắng, tịch tịnh, đoạn trừ các tập khí tham v.v…

Thành tất cả các hạnh lành, đó là: Viễn ly việc sát sanh, không cho thì không lấy, tâm không nhiễm dục, đắc lời nói chân thật, lời nói hòa thuận, lời nói dịu dàng, lời nói điều phục, thường thực hành tâm xả, luôn khởi tâm từ, trụ vào tâm ngay thẳng.

Tịch thịnh thuần thiện, lìa xa cấu dơ của sự phá giới, thực hành quán đại từ, mỗi niệm mỗi niệm đều hiện tiền.

Qua năm A tăng kỳ kiếp giữ thanh tịnh đầy đủ giới Ba la mật đa. Ý chí dõng mãnh, lìa hẳn các cấu nhiễm.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Phát Quang Địa, trụ vô phân biệt, diệt si ám vô minh, ở trong vô tướng nhẫn mà chứng đắc tam minh, biết rõ ba đời, không đến không đi, nương vào bốn tịnh lự, bốn vô sắc định trí vô phân biệt, tùy thuận theo thứ lớp, đầy đủ định thù thắng, chứng năm thần thông, hiện thân lớn nhỏ ẩn hiện một cách tự tại.

Với thiên nhãn tịnh thấy rõ các cõi, với thiên nhĩ thanh tịnh nghe tất cả các loại âm thanh, với tha tâm trí biết tâm của chúng sanh, với đời trước biết vô lượng sự sai khác. Ở trong sáu A tăng kỳ kiếp tu hành tất cả nhẫn Ba la mật đa, đắc đại tổng trì, làm lợi ích an lạc cho chúng sanh.

Lại nữa, Bồ Tát ở ngôi Diệm Huệ Địa, tu hành thuận nhẫn, buông bỏ tất cả vì đoạn hẳn sự vi tế của thân kiến và biên kiến, tu tập vô biên pháp phần bồ đề, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác đạo đầy đủ… vì muốn thành tựu lực, vô sở úy, bất cộng Phật Pháp.

Ở trong bảy A tăng kỳ kiếp tu tập vô lượng tinh tấn Ba la mật đa, xa lìa biếng nhác, làm lợi ích khắp chúng sanh.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Nan Thắng Địa lấy bốn vô úy tùy thuận với chân như thanh tịnh bình đẳng, tướng vô sai biệt, dứt bỏ cái theo tiểu thừa, thích cầu Niết Bàn, tích chứa các công đức, quán hoàn hảo về các đế: Đây là khổ Thánh Đế, tập, diệt, đạo đế. Với Thế tục thắng nghĩa mà quán vô lượng đế, làm lợi lạc cho các chúng sanh, tập theo các kỹ nghệ, văn chương, Bác Sĩ, ca vịnh, vui chơi, công xảo, chú thuật, ngoại đạo dị luận, xem tướng kiết hung chính xác không sai lầm.

Nhưng với chúng sanh không làm cho họ bị khổ não. Vì lợi ích mà khai thị cho tất cả dần dần được an trụ vào Vô Thượng bồ đề, biết đạo xuất ly, đạo chướng ngại trong các Địa, ở trong tám A tăng kỳ kiếp luôn tu tập Tam Muội, khai sáng các hành.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi hiện tiền Địa đắc thuận nhẫn trên, trụ vào ba môn giải thoát, đoạn trừ các tập nhơn, tập nghiệp ở ba cõi, làm cho tướng thô hiện hành, đại bi tăng thượng, quán thấy các sanh tử do vô minh che lấp.

Nghiệp tập, thức chủng, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, già, chết… đều do nghiệp của chấp ngã và vô minh, chẳng phải có, chẳng phải không, một tướng, vô tướng nhưng không có hai.

Ở trong chín A tăng kỳ kiếp tu tập trăm vạn tam muội không vô tướng vô nguyện, đạt được tất cả bát nhã Ba la mật đa chiếu sáng vô biên.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Viễn Hành Địa, tu Vô Sanh Nhẫn, chứng pháp vô biệt, đoạn trừ các nghiệp quả, tướng vi tế hiện hành, trụ vào diệt định mà tu tập hạnh thù thắng.

Mặc dù luôn tịch diệt nhưng giáo hóa khắp cả chúng sanh, thị hiện nhập vào hàng Thanh Văn, thuận theo Phật Trí, thị hiện giống như ngoại đạo, thị hiện làm Ma Vương, dù tùy thuận với thế gian nhưng luôn ra khỏi thế gian.

Ở trong mười A tăng kỳ kiếp tu hành trăm vạn tam muội, dùng phương tiện thiện xảo giảng rộng Pháp Tạng. Tất cả trang nghiêm đều được viên mãn.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Bất Động Địa, trụ vào Vô Sanh Nhẫn, thể không tăng giảm, đoạn các công dụng, trong tâm luôn tịch diệt, không còn tướng về thân tâm, nó giống như hư không.

Các Bồ Tát này là tâm Phật, tâm bồ đề, tâm Niết Bàn, tất cả đều không phải tự phát sanh mà vì do bổn nguyện, được Chư Phật gia hộ, có thể trong khoảng một niệm mà khởi lên trí nghiệp, sáng chiếu bình đẳng.

Với mười lực, trí đi khắp đại thiên Thế Giới không thể nói, theo từng loại chúng sanh mà làm lợi ích an lạc cho tất cả. Ở trong mười ngàn A tăng kỳ kiếp tu đầy đủ trăm vạn đại nguyện, tâm niệm luôn hướng về nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Thiện Huệ Địa trụ vào vô sanh nhẫn, ở trên diệt trừ tướng tâm của tâm, trí chứng tự tại, phá tan chướng vô ngại, đầy đủ đại thần thông, tu tập các lực vô úy, giữ gìn hoàn hảo Tạng Pháp của Chư Phật, đắc vô ngại giải: Pháp nghĩa từ biện, giảng nói chánh pháp không làm cho gián đoạn, không cho diệt tận. 

Ở trong các Thế Giới nhiều không thể nói, chỉ trong một khoảng sát na có thể dùng một âm thanh để giải thích cho tất cả những câu hỏi khó của các chúng sanh, khiến họ rất vui mừng.

Ở trong vạn A tăng kỳ kiếp có thể biến hiện trăm vạn hằng hà sa các thần lực của Phật, với Pháp Tạng vô tận làm lợi ích viên mãn.

Lại nữa, Đại Bồ Tát ở ngôi Pháp Vân Địa có vô lượng trí tuệ tư duy quán sát, từ lúc mới phát lòng tin trải qua trăm vạn A tăng kỳ kiếp chứa nhóm vô lượng pháp trợ đạo, làm tăng trưởng vô biên đại phước trí, chứng nghiệp tự tại, đoạn trừ các chướng ngại của thần thông.

Ở trong một niệm mà có thể đi khắp trăm vạn ức Thế Giới vi trần số Quốc Độ trong mười phương, biết tất cả tâm hành của chúng sanh là căn thượng trung hay hạ, giảng nói cho họ về ba thừa để họ tu tập Ba la mật đa, thể nhập vào hành xứ, lực, vô úy của Phật, tùy thuận với tịch diệt chuyển y của Như Lai.

Này Thiện Nam Tử! Từ lúc bắt đầu tu tập nhẫn cho đến đắc Kim Cang định thì đều gọi là chiến thắng tất cả phiền não bằng Vô tướng tín nhẫn, hiểu rõ thắng nghĩa đế, diệt trừ các phiền não, sanh giải thoát trí, dần dần chế phục diệt, dùng vô sanh diệt mà đắc vô sanh diệt.

Nếu tâm này diệt thì vô minh diệt, Kim Cang định hiện tiền. Tất cả thấy biết đều không gọi là thấy. Chỉ có Phật hiểu rõ vì Ngài đầy đủ nhất thiết trí. Tất cả sự thấy biết được gọi là biết.

Này Thiện Nam Tử! Khi Kim Cang Tam Muội hiện tiền mà cũng chưa có thể đồng đẳng với bậc vô đẳng đẳng. Ví như có người lên đài rất cao nhìn xuống thấy rõ ràng tất cả, cũng vậy ở ngôi vị giải thoát dù một tướng, vô tướng, không sanh không diệt vì pháp tánh đồng đẳng với chơn tế, viên mãn tạng công đức, trụ vào ngôi vị Như Lai.

Này Thiện Nam Tử! Như vậy các Đại Bồ Tát thọ trì giảng nói Kinh này đều đi đến các Cõi Phật khắp mười phương, làm lợi ích an lạc hữu tình, thấu đạt tướng chân thật như ta ngày nay không khác.

Này Thiện Nam Tử! Tất cả Như Lai trong mười phương pháp giới đều nương vào môn này mà được thành Phật.

Nếu ai nói rằng: Vượt khỏi môn này mà thành Phật, thì đó là lời của ma, chứ chẳng phải Phật nói. Cho nên các ông nên biết như vậy, thấy như vậy, tin hiểu như vậy.

Bấy giờ, muốn nói lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Bồ Tát ngôi phục nhẫn

Lớn lên trong Phật Pháp

Ba mươi tâm kiên cố

Gọi là bất thối chuyển.

Mới chứng tánh bình đẳng

Sanh vào nhà Chư Phật

Do mới được giác ngộ

Gọi là Hoan Hỷ Địa.

Xa lìa các nhiễm ô

Các cấu sân v.v…

Đủ giới đức thanh tịnh

Gọi là Ly Cấu Địa.

Diệt sạch ám vô minh

Chứng đắc các thiền định

Nhờ huệ quang chiếu sáng

Gọi là Phát Quang Địa.

Bồ Đề phần thanh tịnh

Xa lìa thân biên kiến

Lửa trí tuệ sáng rực

Gọi là Diễm Huệ Địa.

Biết các đế như thật

Các kỹ nghệ thế gian

Làm lợi ích quần sanh

Gọi là Nan Thắng Địa.

Quán pháp do duyên sanh

Vô minh đến già chết

Chứng được thâm sâu ấy

Gọi là Hiện Tiền Địa.

Phương tiện Tam Ma Địa

Thị hiện vô lượng thân

Thiện xảo hợp quần sanh

Gọi là Viễn Hành Địa.

Trụ vào biển vô tướng

Được Chư Phật gia hộ

Tự tại phá quân ma

Gọi là Bất Động Địa.

Đắc bốn vô ngại giải

Một âm nói tất cả

Ai nghe đều vui mừng

Gọi là Thiện Huệ Địa.

Trí huệ như mây kín

Che khắp cả pháp giới

Rưới khắp pháp Cam Lồ

Gọi là Pháp Vân Địa.

Đầy đủ giới vô lậu

Thân thường tịnh, giải thoát

Tịch diệt không nghĩ bàn

Gọi là nhất thiết trí.

Đức Phật dạy Vua Ba Tư Nặc: Sau khi ta diệt độ, lúc pháp sắp diệt thì tất cả hữu tình tạo các nghiệp ác sẽ làm cho các Quốc Độ xảy ra các tai họa. Vì để bảo vệ thân mình, Thái Tử, Vương Tử, Hậu Phi, quyến thuộc, bách quan, bách tánh, tất cả quốc độ của các Quốc Vương nên thọ trì bát nhã Ba la mật đa đều được an lạc.

Nay Ta đem Kinh này giao phó cho Quốc Vương, không giao cho Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.

Vì sao?

Vì nếu không có oai lực của Vua thì không đứng vững được. Cho nên các ông thường phải thọ trì, đọc tụng, giải nói Kinh này.

Này Đại Vương! Hôm nay ta đã hóa hiện trong Đại Thiên Thế Giới trăm ức Tu Di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, mỗi Tu Di có bốn thiên hạ. Thiệm Bộ Châu này có mười sáu nước lớn, năm trăm nước trung và mười vạn nước nhỏ.

Trong các nước ấy nếu có xảy ra bảy nạn, để diệt trừ các nạn ấy, tất cả Quốc Vương thọ trì, giải nói bát nhã Ba la mật đa này thì bảy nạn liền tiêu diệt, đất nước trở lại an lạc.

Vua Ba Tư Nặc hỏi Phật: Bảy nạn ấy là gì?

Đức Phật dạy:

1. Mặt trời mặt trăng vận hành không đúng lúc, màu sắc mặt trời thay đổi: Trắng, đỏ, vàng, đen hoặc hai, ba, bốn, năm mặt trời chiếu cùng một lúc.

Màu mặt trăng biến đổi: vàng, đỏ.

Mặt trời, mặt trăng nuốt nhau, hoặc vầng Trăng chồng lên nhau: Một, hai, ba, bốn, năm vầng chồng lên rồi hiện.

2. Tinh tú vận hành không đúng lúc.

Các sao: Sao Huệ, sao Mộc, sao Hỏa, sao Kim, sao Thủy, sao Thổ… bị biến đổi hoặc có khi mọc ban ngày.

3. Lửa rồng, lửa quỷ, lửa người, lửa cây, bốn lửa dữ nổi bùng lên làm thiêu rụi vạn vật.

4. Thời tiết thay đổi, lạnh nóng bất thường. Mùa Đông thì mưa sấm sét, mùa Hè sương băng tuyết. Mưa đất, đá, sỏi, cát. đổ xuống cơn mưa đá không đúng lúc với nước màu đỏ sậm, nước sông biển lênh láng làm trôi đá nổi núi.

5. Gió dữ luôn nổi lên, tối tăm che lấp mặt trời, mặt trăng, làm cho tróc nhà, cây bật gốc, cát bay, đá chạy.

6. Trời Đất nắng hạn, làm cho nước đê điều ao cạn, cây cối chết khô, trăm thứ lúa mạch không sanh trưởng.

7. Giặc cướp từ phương khác đến xâm lấn trong và ngoài nước, binh đao chém giết nổi lên làm cho trăm họ bỏ mạng.

Này Đại Vương! Hôm nay Ta nói sơ về các nạn như vậy. Nếu có lúc ban ngày mặt trời không xuất hiện, ban đêm mặt trăng không xuất hiện, trên trời đủ các tai họa hư không có mây, mưa, tuyết. Còn dưới đất cũng có các tai họa nứt lở, sụp, chấn động.

Hoặc máu chảy, quỷ thần, xuất hiện những loài chim thú quái dị… những tai họa như vậy nhiều vô lượng vô biên.

Khi mỗi tai họa xảy ra đều phải thọ trì, đọc tụng, giải nói bát nhã Ba la mật đa này. Khi nghe Đức Phật nói như vậy, mười sáu Quốc Vương đều kinh sợ.

Vua Ba Tư Nặc thưa Phật: Bạch Thế Tôn, vì sao Trời Đất có những tai nạn như vậy?

Đức Phật dạy: Này Đại Vương! Do tất cả nhân dân các nước lớn nhỏ trong Thiệm Bộ Châu bất hiếu với cha mẹ, không kính Sư Trưởng, Sa Môn, Bà La Môn. Quốc Vương, Đại Thần không hành theo chánh pháp. Do các xấu ác này mà xảy ra các tai nạn như vậy.

Này Đại Vương! Bát nhã Ba la mật đa có thể sanh ra tất cả các pháp của Chư Phật, tất cả pháp giải thoát của Bồ Tát, tất cả pháp Vô Thượng của Quốc Vương, tất cả pháp xuất ly của hữu tình. Ví như viên châu ma ni, thể của nó có đầy đủ các đức có thể làm đè dẹp rồng độc, các quỷ thần ác.

Có thể làm đầy đủ sự mong cầu của con người, có thể ứng với luân Vương, gọi là viên châu như ý, có thể làm cho các Đại Long Vương như: Nan Đà, Bạt Nan Đà, v.v… giáng xuống mưa ngọt làm thấm nhuần cây cỏ. Nếu vào ban đêm tối tăm, gắn viên châu như ý trên ngọn cờ cao thì ánh sáng của nó chiếu khắp Trời Đất giống như mặt trời mọc.

Bát Nhã Ba la mật đa này cũng vậy, các Vua các ông nên làm Tràng Phan, Cờ, Lọng báu, đốt hương rải hoa cúng dường với lòng rộng lớn, làm hộp báu để đựng Kinh này rồi đặt trên bàn báu. Nếu khi muốn đi thì Kinh này luôn dẫn đường đi trước. Đến ở chỗ nào phải làm cờ bảy báu, dùng các châu báu làm tòa và đặt Kinh này lên trên.

Đem tất cả để cúng dường giống như phụng thờ cha mẹ, như Chư Thiên phụng thờ Đế Thích.

Này Đại Vương! Ta thấy tất cả nhân dân và Vua trong các nước đều nhờ quá khứ hầu năm trăm Đức Phật, cung kính cúng dường các Ngài mà được làm Đế Vương, tất cả Thánh Nhân đắc đạo quả rồi đến sanh vào các nước ấy để làm đại lợi ích. Nếu khi Vua hết phước vô đạo thì Thánh nhân bỏ đi, tai nạn tranh nhau xảy ra.

Này Đại Vương! Nếu đời sau có các Quốc Vương kiến lập chánh pháp, ủng hộ Tam Bảo thì Ta bảo chúng Đại Bồ Tát ở năm phương đến ủng hộ đất nước của vị Vua ấy:

Phương Đông có Đại Bồ Tát Kim Cang Thủ, tay cầm chày Kim Cang phóng ánh sáng xanh và cùng bốn câu chi Bồ Tát đến ủng hộ nước của vị Vua ấy.

Phương Nam có Đại Bồ Tát Kim Cang bảo, tay cầm viên châu ma ni Kim Cang phóng ánh sáng màu mặt trời, cùng bốn câu chi Bồ Tát đến ủng hộ đất nước của vị Vua ấy.

Phương Tây có Đại Bồ Tát Kim Cang Lợi, tay cầm kiếm Kim Cang phóng ánh sáng màu vàng ròng cùng bốn câu chi Bồ Tát đến ủng hộ nước của các vị Vua ấy.

Phương Bắc có Đại Bồ Tát Kim Cang Dược Xoa, tay cầm linh Kim Cang phóng ánh sáng màu lưu ly cùng bốn câu chi Bồ Tát đến ủng hộ nước của các vị Vua ấy.

Phương giữa có Đại Bồ Tát Ba La Mật Đa Kim Cang, tay cầm vòng Kim Cang phóng ánh sáng năm màu cùng bốn câu chi Bồ Tát đến ủng hộ nước của các vị Vua ấy.

Năm Đại Bồ Tát ấy đều cùng vô lượng đại chúng như vậy ở trong nước của ông làm đại lợi ích. Ông nên dựng hình tượng mà cúng dường các Ngài.

Bấy giờ, các Đại Bồ Tát Kim Cang Thủ v.v… liền đứng dậy đảnh lễ sát hai chân Đức Phật rồi lui ra một bên, thưa Phật: Bạch Thế Tôn!

Bổn nguyện của chúng con là nương nhờ thần lực của Phật. Nếu tất cả Quốc Độ trong mười phương Thế Giới có nơi nào có Kinh này mà thọ trì, đọc tụng, giải nói thì chúng con sẽ cùng tất cả quyến thuộc như thế ở trong một niệm liền đến nơi ấy để bảo vệ chánh pháp, gây dựng chánh pháp, khiến cho các tai nạn đao binh, tật dịch… của nước ấy đều được tiêu trừ.

Bạch Thế Tôn! Chúng con có Đà La Ni có thể gia trì ủng hộ, đó là môn tu hành mau chóng của tất cả các Đức Phật. Nếu ai được nghe lọt vào tai thì tất cả tội chướng đều được tiêu trừ, huống chi tụng tập, học thuộc lòng. Nhờ oai lực của pháp nên khiến cho đất nước dứt hẳn các tai nạn.

Các Đại Bồ Tát ở trước Phật đồng thanh nói Đà La Ni:

Na mô ra đát na, đát ra, dạ dã. Na mạc a rị dạ phệ lô giả na dã đát tha bà đa, dạ ra ha đế miệu một đà dã ma mạc a rị dã tam mãn đa bạt nại ra dã mạo Địa tát đát phược dã ma ha tát đát phược dã ma hạ ca lỗ ni ca dã đát nhĩ dã tha chỉ nẳng na bát ra nhĩ bố ác khất xoa dã ác thế bát ra để bà na phược để tát phược một đà phược lộ chỉ đế du ngạ phả rị nhĩ sáp phả ninh nghiêm tích ra nổ ra phược ngạ hệ để rị dã đặc phược phả ri nhĩ sáp phả ninh mạo Địa chất đa tán thứ na nhĩ tát phược tỳ thô ca tỳ sắc ngật đế đạt ma sa ngạ ra tam bộ đế a mộ già thất ra phược ninh ma hạ tam mãn đa bạt nại ra bộ nhĩ niết rị dã đế vĩ dã yết ra noa bạt rị bát ra phả nhĩ tát phược tất đà na ma tắt ngật rị đế tát phược mạo Địa tát đát phược tán thứ na nhĩ bà ngạ phược để một đà ma đế a la nhĩ Ca Sa nhĩ a ra noa ca ra na ma hạ bát la chỉ nẳng phan ra nhĩ đế ta phược.

Nghe nói vậy, Đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ Tát Kim Cang Thủ …: Lành thay! Lành thay! Nếu có người đọc tụng, giữ gìn Đà La Ni này, ta và Chư Phật mười phương đều luôn ủng hộ, diệt trừ các quỷ thần độc ác và kính trọng vị ấy như Đức Phật, không bao lâu vị ấy sẽ chứng đắc Vô Thượng bồ đề.

Này Đại VươngTa đem Kinh này giao phó cho các ông. Tất cả các Quốc Vương của nước Tỳ Xá Ly, nước Kiều Tát La, nước Thất La Phiệt, nước Ma Già Đà, nước Ba La Nê Tư, nước Ca Tỳ La, nước Câu Thi Na, nước Kiều Diệm, nước Bát Già La, nước Ba Sất La, nước Mạt Thổ La, nước Ô Thi Ni, nước Bôn Sất Bạt Đa, nước Đề Bà Đạt Da, nước Ca Thi, nước Chiêm Bà… đều phải thọ trì bát nhã Ba la mật đa.

Nghe Đức Phật nói những tai nạn như vậy, các đại chúng A Tu La… đều gợn chân lông và cất cao tiếng thưa: Chúng con nguyện đời vị lai không sanh vào các nước ấy. Bấy giờ, mười sáu vị Vua đều bỏ ngôi Vua mà tu đạo xuất gia, chứng đầy đủ tám thắng xứ, mười nhất thiết xứ, đắc phục nhẫn, ngôn nhẫn, vô sanh pháp nhẫn.

Khi ấy, tất cả Đại Chúng Trời, Người, A Tu La… rải hoa Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Bà Sư Ca, hoa Tô Mạn Na để cúng dường Phật, tùy theo căn tánh mà họ đắc ba môn giải thoát, chứng ngộ sanh không, pháp không, pháp phần bồ đề.

Vô lượng vô số Đại Bồ Tát rải hoa Câu Vật Đầu, hoa Ba Đầu Ma để cúng dường Phật. Vô lượng tam muội đều hiện tiền, đắc trụ thuận nhẫn, vô sanh pháp nhẫn.

Vô lượng vô số Đại Bồ Tát đắc hằng hà sa các môn tam muội, chân tục bình đẳng, đầy đủ vô ngại giải, luôn phát sanh đại bi.

Ở trong số vi trần Thế Giới của trăm vạn ức A tăng kỳ Cõi Phật làm lợi ích rộng rãi cho chúng sanh và chuyển hiện thân thành Phật.

***