Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Nhất Tự Kỳ đặc Phật đảnh

PHẬT THUYẾT KINH

NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

 Bất Không, Đời Đường
 

PHẨM BỐN

PHẨM TIÊN HÀNH
 

Bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, chắp tay lễ Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn ấn khả cho con nơi tất cả Chân Ngôn được quán đảnh, nơi tất cả Như Lai trì giữ bí mật.

Đức Thế Tôn ở Đại Tập Hội của Bồ Tát, vì người tu Chân Ngôn hạnh với vì can và tất cả hữu tình, thương xót lợi ích cho tất cả đại chúng. Nguyện xin nói Phật Đảnh Chuyển Luân Vương Giáo Phương Tiện. Hoặc có người đời sau ở đương lai được lợi ích an vui.

Thời, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: Lành thay! Lành thay Bí Mật Chủ! Ông hay vì lợi ích như thế mà hỏi như vậy. Ông nên nghe cho kỹ, nay ta sẽ nói.

Này Bí Mật Chủ! Tất cả Minh Chân Ngôn Vương, Tam Muội Da, Tùy Nhập Nghi Quỹ, quán đảnh Nghi của Vô Chướng Ngại Như Lai Đảnh này đã nói. Nay ta ví dụ.

Bí Mật Chủ! Như Đức Như Lai đối với hữu tình ở đời, trên Trời… là bậc Thượng Thượng.

Thiện Nam Tử! Chuyển Luân Vương Phật Đảnh này là tối thắng trong tất cả Chân Ngôn, là Thượng Thượng trong tất cả Chân Ngôn Vương. Như vậy nghi quỹ của việc trước tiên, tức thành Thành Tựu Nghi.

Trước hết nên nói nghi thức vẽ tượng. Do vừa thấy tượng này, tu tất cả Chân Ngôn, nơi tất cả giáo, kham nhận thành tựu.

Do vừa thấy tượng này, giải thoát được tất cả tội, tất cả Chân Ngôn của Thế.

Gian Xuất thế gian đều được lưu thông.

Do vừa thấy tượng này, được Trì Kim Cang nhiếp thọ.

Do vừa thấy tượng này, xa lìa được tất cả chướng, Tỳ Na Dạ Ca.

Do vừa thấy tượng này thì Đại Giáo Vương an vui, dễ được thành tựu.

Do vừa thấy tượng này thì tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân… đều lễ kính. Cho đến lược nói.

Này Thiện Nam Tử! Do vừa thấy tượng này thì đều được thành tựu tất cả nghĩa của câu đã nói trong tất cả Minh Giáo thuộc thế gian xuất thế gian, thấy tất cả Chân Ngôn Minh Thượng Thượng của thế gian xuất thế gian, Phật Đảnh này là Chủ Tể trong tất cả Phật Đảnh.

Nay ta nói vẽ tượng. Đồng Nữ se bện dây chẳng được cắt xen như dũng sĩ mua bán với nhau giao dịch. Thầy dệt vải chức sư thọ nhận trai giới, nên đan dệt sợi dây dài ba khuỷu tay. Trước tiên dùng Ngũ Tịnh sữa, bơ, cao sữa với nước tiểu, phân của con bò màu vàng tẩy rửa, sau đó dùng nước hương Chiên Đàn tẩy rửa.

Xoa bôi hương trên bức vách là nơi treo tượng vẽ, hướng mặt về phương Đông, đối diện trước mặt để cái bình với đáy chẳng được đen, chứa đầy nước hương với tất cả thuốc báu, cúng dường rộng lớn tất cả Phật, Bồ Tát. Ba Thời tiêu đốt Trầm Thủy Hương.

Thầy vẽ họa sư ấy tin tưởng trong sạch nơi Tam Bảo, chẳng tin vị Trời khác, rất nghiêm nghị, thọ nhận tám giới, trải cỏ để ngủ nghỉ, thân mặc áo trắng, ba thời tắm gội, ba thời thay đổi áo.

Như vậy, người vẽ họa nhân chẳng có phóng dật, nên vẽ Thánh Giả từ biển lớn nhảy vọt lên trên Tu Di Lô Vương do bốn báu tạo thành, ngồi trên hoa sen trắng với thân màu vàng trắng, ngồi Kiết Già chánh thọ Nhất Thiết Tam Ma Địa Tối Thắng Vương Tam Ma Địa. Từ tất cả chỗ trên thân, biến ra các bánh xe luân có hào quang rực rỡ.

Ở phía trên, nên vẽ ngọn núi, ngọn núi ấy do mọi loại báu hợp thành.

Người trì tụng ở bên phải Đức Phật, y theo hình sắc của người ấy bản hình sắc bưng lư hương, quỳ gối phải sát đất, quán nhìn khuôn mặt của Đức Như Lai.

Bên dưới nên vẽ cái ao hoa sen.

Từ đảnh đầu của Đức Phật phóng ra các ánh sáng: Màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng.

Liền đem tượng này an ở nơi vắng lặng, chẳng được gấp rút, yên lặng tiết chế ăn uống, y theo nhóm Chân Ngôn, Khế Kinh, Tỳ Ni… chẳng nên phóng dật, sanh tâm thương xót tất cả hữu tình đạng chịu khổ, dùng con mắt trí trí nhãn khép nhiếp các căn, tâm chẳng tán động, ý thường đẳng dẫn samāhita, xa lìa tất cả lỗi lầm với ngăn chận các chướng nạn, chẳng nên ăn cá, thịt.

Chẳng tác ý khác, tin tưởng trong sạch nơi Tam Bảo, hiện tiền kính tin, xót thương tất cả hữu tình, phát ý nguyện Đại Bồ Đề nơi sự thành tựu, ba thời tắm gội, mặc áo sạch mới, ở nhàn tịnh không có người tại con sông lớn hoặc ngọn núi, thân miệng tâm chẳng mệt mỏi, trong tất cả thời làm cúng dường rộng lớn nơi Phật Thế Tôn, vào lúc trăng tròn thì ngày đêm chẳng ăn.

Bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, hoặc ăn rau, hoặc ăn Đại Mạch, hoặc đi xin thức ăn, hoặc uống nước, hoặc ăn Sa?

Tụng tám Lạc Xoa tám mươi vạn, làm Pháp Tiên Sự việc làm đầu tiên.

Nếu muốn thành tựu An Thiện Na. Dũng Sĩ giao dịch, mua một lạng Tảo Vĩ Lan An Thiện Na, khiến Đồng Nữ Bà La Môn dùng ngũ tịnh tẩy rửa, hướng mặt về phương Bắc nghiền xong, rồi dùng ngón tay phải vê thành viên dùng nước mưa để hòa, khi vê thời dùng sáp xoa bôi mặt ngón tay, se vê làm thành viên.

Nếu viên thuốc có vằn của ngón tay tức chẳng thành tựu. Làm bốn viên xong, để đầy trên lá hoa sen, phơi trong bóng mát cho khô, sau đó an trước mặt Đức Phật, y theo Nghi Quỹ Hộ Ma nhúm lửa.

Làm một ngàn Tam Ba Đa Samāpta: Đã xong chỗ dùng của thời Hộ Ma. Làm xong, liền ở nơi có tháp Xá Lợi, hoặc ở trước mặt tượng, cúng dường rộng lớn.

Thiêu đốt cây Ba La Xa Palāśa: Xích Hoa Thụ tám ngày Hộ Ma. Xoa tô một Mạn Trà La nhỏ, an hộ bốn phương.

Ở Mạn Trà La của lớp thứ hai, dùng hạt cải trắng cảnh giác.

Ở Mạn Trà La của lớp thứ ba, có bạn hoặc không có bạn, cúng dường rộng lớn, tác Chân Ngôn gia hộ.

Hướng mặt về phương Đông, trải cỏ trang ngồi, an vật khí chứa thuốc trên ba lá Bồ Đề, đem bốn lá Bồ Đề che trùm lên, dùng bàn tay phải đè lên vật khí chứa thuốc, niệm tụng cho đến khi phát ra hơi ấm, khói, lửa.

Nếu thành tựu địa vị ban đầu sơ vị, tức hơi ấm, dùng chấm vào con mắt thì người nào nhìn thấy người trì tụng thảy đều kính yêu.

Thành tựu địa vị thứ hai tức phát ra khói thì có sức mạnh chống lại ngàn con vôi, đi nhanh như gió, thọ mạng năm trăm năm, giả sử được một phần mười thì các Trì Minh chẳng dám xúc phạm.

Thành tựu địa vị thứ ba tức phát ra lửa thì thân như mặt trời mới mọc phát ra ánh sáng quý báu trang nghiêm, thọ mạng một trung kiếp. Các loại Trì Minh khác chẳng dám khinh mạn, cao ngạo như Luân Vương nổi gió lên mà đi.

Như vậy, nơi đạt được Tất Địa Siddhi thuộc ba loại thành tựu của nhóm Tố Lộ, Đán Thiện Na, Thư Hoàng, Hùng Hoàng… đều giống nhau.

Lại có pháp, nếu muốn thành tựu chày Kim Cang. Lấy cây Phích Lịch dài mười sáu ngón tay làm chày Kim Cang. Trong khi trăng tròn, ba ngày ba đêm chẳng ăn, làm cúng dường rộng lớn nơi Phật, Bồ Tát. Bày đủ chày hiến Phật, đem mọi loại thức ăn uống cúng dường Đức Phật.

Sau đó đem chày Kim Cang đến chỗ Xa Ma Xa Na Śma śana: Nơi bỏ xác người chết, nơi vắng vẻ lặng yên có mồ mả.

Lấy đất ở hai bên con sông chảy về phương Đông, hòa với Ngũ Tịnh làm Tốt Đổ Ba Stūpa: Cái tháp có nhiều tầng cao một khuỷu tay, đối trức mặt y theo Nghi Quỹ cúng dường.

Lấy tro ở Xa Ma Xa Na ở trước Tháp làm hình chày Kim Cang, an chày Kim Cang ở bên trên, dùng bàn tay đè lên trên, niệm tụng, cho đến khi khất thực đi xin thức ăn thời tắm gội, cầm cái chày ấy đi xin thức ăn. Được xong thì chia tức ăn cúng dường Đức Phật, sau đó tự ăn để hộ thận. Hoặc có bạn, hoặc không có bạn, dùng hai tay đè lên trên cái chày ấy, niệm tụng cho đến khi thành tựu ba loại.

Thành tựu địa vị ban đầu sơ vị, tức hơi ấm thời người cầm chày Kim Cương nhìn thấy ai thì đều được họ kính yêu.

Thành tựu địa vị thứ hai tức phát ra khói thì như con trâu theo bụi mù, bay cao lên mà đi, có sức mạnh chống lại chín ngàn con voi, đi nhanh như gió. Giả sử được một phần sáu thì chỗ mong cầu đều tự tại, hay Câu Triệu, thân có ánh sáng màu nhiệm, được oai đức lớn.

Thành tựu địa vị thứ ba tức phát ra lửa thì thân như mặt trời mới mọc phát ra ánh sáng, thọ mạng một vạn tuổi, cao ngạo như Luân Vương cầm chày Kim Cang du hành.

Như vậy, nơi thành tựu Tất Địa Siddhi của nhóm hoa sen, Tam Kích Xoa, Việt Phủ cây búa … đều giống nhau.

Lại có pháp, muốn thành tựu ngón tay chỉ. Trước tiên làm Pháp Tiên Sự.

Lấy ngón trỏ của đứa bé chẳng đủ óc não, như Pháp lúc trước làm Tốt Đổ Ba cái tháp, lại cúng dường rộng lớn nơi Xa Ma Xa Na Śma śana, trải cỏ tranh ngồi hướng mặt về phương Đông, đem ngón tay ấy hiến Phật xong, dùng bàn tay đè lên, cho đến khi phóng ánh sáng, lửa đèn sáng lên, tức như ý Kết Hộ, niệm tụng hết một đêm cho đến sáng sớm, dùng ngón tay ấy chiêu vời tức được kính yêu.

Lại có pháp. Ba ngày ba đêm chẳng ăn, niệm tụng. Đối trước mặt Đức Phật làm Mạn Trà La, đốt đèn bơ cúng dường, trải cỏ tranh mà ngồi.

Lấy sữa của bò mẹ con cùng màu với bò con, đựng đầy trong cái bình bẳng ngói, gia trì một ngàn không trăm lẻ tám biến, dùng tro kết Đàn Giới. Sáng sớm tắm gội, tụng Chân Ngôn, quậy sữa lấy bơ sống sanh tô để trước mặt Đức Phật cúng dường, đốt đèn bơ, tụng Chân Ngôn, lấy bơ đã khấy, làm hình tượng người để trên bảy lá Bồ Đề, đối trước tượng gia trì niệm tụng, cho đến khi cử động thì lấy này chạm vào người khác, đều được kính yêu.

Lại có pháp. Như Pháp lúc trước, lấy bột của nhụy cây Long Hoa làm hình người, lấy vật khí bằng ngói thơm mà đựng, gia trì một ngàn không trăm lẻ tám biến thì người tiếp chạm với người nghĩ nhớ đến, đều được kính yêu.

Lại có pháp. Dùng pháp lúc trước, thiêu đốt cọng, mầm của Ngưu Tất làm Hộ Ma thì đều được Tài Lợi đã mong cầu.

Lại có pháp. Ở trong chuồng bò ngưu lan, đối trước mặt Đức Phật làm một Tốt Đổ Ba cái tháp cao một khuỷu tay, y theo pháp cúng dường, đốt An Tất Hương, Hộ Ma mười vạn biến thì được một ngàn con bò.

Lại có pháp. Dùng pháp lúc trước, lấy Bạch Giao Hương hòa với bơ, Hô Ma mười vạn biến thì được mười hai thôn làng xóm tối thắng.

Lại có pháp. Dùng pháp lúc trước, lấy hoa sen, xoa bôi Đàn Hương, đem một ngàn cái hiến Phật, liền được làm Chủ một thành ấp.

Lại có pháp. Dùng pháp lúc trước, đốt An Tất Hương, đem một vạn hoa Chiêm Bặc hiến Phật thì được một ngàn lạng vàng.

Lại có pháp. Lấy mười vạn hoa có nhụy hiến Phật thì mười tấm lụa trắng, như vậy tất cả hoa tùy theo màu sắc mà được lụa màu.

Lại có pháp. Lấy tro ở Xa Ma Xa Na Śma śana, khi trăng tròn ngày đêm không ăn, lấy Lỗ Địa La Rudhira: Máu của ngón vô danh làm hình người kia, dùng bàn chân trái đạp lên, niệm tụng một ngàn biến kèm theo chủng tộc, đều được kính yêu.

Lại có pháp, muốn cầu hôn. Lấy hoa lúa gạo hòa với bơ, mật, lạc, Hộ Ma một ngàn không trăm lẻ tám biến, xưng tên cô gái kia, niệm tụng, tức tùy theo ước nguyện. Nếu chẳng tùy thuận thì cô gái kia sẽ chết.

Lại có pháp. Lấy bột gạo tẻ cánh mễ làm hình người, đem dầu đắng khổ du đổ đầy ở trái tim, lấy kim sắt mà châm, đem dầu hạt cải xoa bôi, lấy lửa ở Xa Ma Xa Na mà nướng, niệm tụng một ngàn không trăm lẻ tám biến, khoảng một ngày liền khiến cho nam nữ kính yêu. Hai ngày thì Tỳ Xá Vương, ba ngày thì Bà La Môn đều kính yêu.

Nay ta nói sự nghiệp chưa thành tựu. Lấy Ngưu Hoàng gia trì bảy biến rửa mặt. Nếu người nhìn thấy đều kính yêu. Nếu đem chấm lên trán, hoặc thấy người kia với ngươi kia nhìn thấy mình đều kính yêu. Ở trong đám giặc, tác ý niệm tụng thì đều được giải thoát.

Nếu người kia làm Pháp gây tổn hoại thì người tự trì Chân Ngôn, dùng hoa lúa gạo, hoa Câu Na Vệ tên riêng của cây Giáp Trúc Đào màu trắng, hạt cải trắng… làm hình Bản Tôn, đem bàn tay trái đè lên trên, niệm tụng một ngàn biến thì tất cả Chân Ngôn chẳng thể gây tổn hoại.

Nếu muốn trừ bệnh nóng, lạnh. Lấy hoa Sơn Nhĩ, gia tri một trăm lẻ tám biến thiêu đốt. Giả sử bị bệnh sốt rét do Quỷ gây ra Quỷ ngược cũng được trừ khỏi.

Lại có pháp. Lấy cây Khư Đà La Khadira Hộ Ma một trăm lẻ tám biến thời trừ tất cả quỷ mỵ. Lại gia trì vào tro bảy biến, tụng Già Tha Chân Ngôn một biến xong, dùng nước rưới vảy liền giải trừ.

Lại người bị rắn cắn. Vẽ hình con rắn, cầm cây đao tụng một biến thì chặt xuống một lần, ắt con rắn đã cắn người liền đến. Xoay cây đao ấy theo bên trái tức thành phát khiển kèm theo quy mạng, tụng Chân Ngôn gia thêm hai chữ Hồng HŪṂ HŪṂ liền cấm chỉ con rắn.

Kèm theo Quy Mạng gia thêm chữ Hồng HŪṂ tụng Chân Ngôn tức thành giải trừ. Gia thêm hai chữ Phát Tra PHAṬ PHAṬ tụng Chân Ngôn, lấy ngón cái trái vẽ dưới đất thì con rắn đã cắn người liền bò đến.

Bỏ chữ Phát Tra PHAṬ tụng hai mươi mốt biến, lấy tay chạm nơi trán thì người đã bị rắn cắn liền đứng dậy, gia trì hai mươi mốt biến, lấy nước rải trên đầu như bánh xe xoay chuyển, kèmm tụng Phát Tra PHAṬ hai mươi mốt biến, lấy nước để ngay lỗ mũi gia trì rải tán bốn phương, liền đến nơi đã cư ngụ bản cư lấy nước, y theo lúc trước gia trì, sau đó ném xuống đất thì con rắn cũng đến.

Lại dùng cành Câu Na Vệ kèm tụng chữ Phát Tra PHAṬ đánh xuống đất thì quỷ mỵ kêu la, kèm theo quy mạng, tụng. Dùng bàn tay phải tiếp chạm tức được trừ khỏi.

Lại trừ bỏ Quy Mạng, tụng hai mươi mốt biến.

Lấy xương Ma Nô Sa xương người làm cây cọc, xưng tên người kia, tùy theo đất mà đóng thì Ma Nô Sa Manuṣā: Con người liền bị bệnh do quỷ mỵ gây hoại loạn. Dùng tóc kết thành sợi dây cột buộc cây cọc ấy, tụng một biến rồi nhổ lên, tức được trở lại như cũ.

Lại bỏ chữ Phát Tra PHAṬ, Lấy An Tất Hương làm thành viên rồi thiêu đốt, niệm tụng một trăm lẻ tám biến, xưng tên kẻ kia.

Hoặc loài La Nhạ Rāja: Vua chúa tức thành Câu Triệu. Đốt Bạch Giao Hương, tụng hai mươi mốt biến liền được giải trừ.

Lại Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Chân Ngôn kèm với chữ Phát Tra.

PHAṬ viết lên vải lụa viết, hoặc ở trên vỏ cây hoa hoa bì rồi để trên cây phướng thì cả hai quân binh liền đứng yên. Liền đem cây phướng này dẫn đầu tức quân binh kia đều bức não chẳng yên. Bụm nước tụng bảy biến rải tán bốn phương, cầm cây phướng lui trở về liền được an ổn.

Lại muốn loại bỏ tên bắn, lấy dầu gia trì hai mươi mốt biến rồi xoa bôi lên trên thì mùi tên liền rơi ra.

Lại bỏ chữ Phát Tra PHAṬ, gia trì vào nước hoặc dầu rồi cho người đàn bà khó sanh uống vào với xoa bôi, liền sanh dễ dàng.

Lại gia trì vào khối đất một biến, vẽ hình kẻ kia, để đất ở trên miệng, tức cấm tài ăn nói của kẻ ấy với luận nghị được thắng. Muốn giải trừ thì kèm theo Phát Tra PHAṬ gia trì vào Khương Thạch rồi để ở bên trên, liền giải trừ.

Lại gia trì vào hạt cải trắng một trăm lẻ tám biến, liến thành Câu Triệu. Lấy một bụm nước, gia trì bảy biến rồi tán rải liền thành Phát Khiển.

Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương này không có chướng ngại, y theo tất cả giáo tướng, nên làm pháp. Lại có pháp.

Làm Pháp Tiên Sự: Ở bờ sông, hoặc dưới một cáy cây, hoặc ở sườn núi, hoặc bên cạnh cái ao. Hoặc có trợ bạn, hoặc không có trợ bạn. Đi xin thức ăn, lặng yên tương ứng với tâm từ. Ba thời nói tội, y thường cứng mạnh không có yếu hèn, tâm thường ưa thích bố thí, tự làm quán đảnh, làm gia hộ, mặc áo giáp, kết Phương Ngung Đàn Giới, dùng Chân Ngôn gia trì vào nước rưới vảy lên áo.

Tụng Chân Ngôn của nhóm: Hương xoa bôi, vòng hoa, hương đốt, thức ăn uống, đèn sáng… nghênh thỉnh, phụng tống… Tất cả thời tác tụng mười vạn biến tức kết thúc.

Sau khi làm Tiên Sự. Nếu phẫn nộ nhìn người khác thì kẻ ấy bị Điên Giản Quỷ làm cho cuồng loạn, thân chẳng tự tại. Nếu lại niệm tụng ngó nhìn, tức mụn nhọt trên thân bị thiêu đốt đến chết. Việc này không có ngăn ngại.

Hoặc dùng ngón trỏ chân phải bấm đất mà tụng, tức khoảng sát na, từ trên không tuôn cơn mưa lửa đốt cháy tất cả nơi chốn. Song, khởi tâm từ niệm tụng liền giải trừ.

Như vậy giận dữ tụng thì xua đuổi quân địch, hay sanh tất cả bệnh, khiến xua đuổi giết hại làm cho khô kiệt, mê muội cuồng loạn. Hoặc bị điên giản quỷ, mỵ, ngược quỷ nắm giữ làm cho thân phần bị bức não. Nếu như điều này, tụng thì tất cả chẳng có gì không được thành tựu. Nếu khởi ý trong sạch, tâm hiền từ tụng tức đều được ngưng dứt.

Lại có pháp, nếu muốn thành tựu. Vào tháng thần thông tháng giêng, tháng 5, tháng 9 ở chỗ giao hội của con sông, làm cái tháp duyên sanh thai tạng, để tượng ở trước Tháp.

Hoặc uống nước, ăn Sa?

Lấy cây Át Già tẩm bơ thiêu đốt làm Hộ Ma mười vạn biến, tức đất chấn động tận bên trong Địa Chủ ấy.

Hoặc lưu tinh, hoặc ẩn ngay trong mây mưa, được đại phục tàng kho tàng to lớn bị che dấu, thấy ánh sáng, ý ưa thích chuyển y Āśraya parivṛtti, hay Āśraya parāvṛtti: Ý chuyển nơi đã nương tựa, sống lâu một kiếp, tất cả hữu tình chẳng thể tự gây hoại, làm Đại Minh Vương sáng chói tất cả phương.

Nếu nhìn thấy thì hay tràn khắp, nhập vào tất cả thành tựu Tượng Pháp này, chẳng nên thiếu chí mạnh mẽ, chẳng nên thiếu tuệ, không có tâm bi, chẳng nên tạp uế, chẳng gom chứa tư lương Sambhāra, chẳng nên khinh hủy Tôn Sư, nói lời thô ác, tâm tán động lừa dối với chẳng thấy mạn trà la, người bận bịu với việc kinh doanh buôn bán, hy vọng có việc để làm… nếu có người lìa thứ ác như vậy… thì chẳng lâu sẽ thành tựu công đức như vậy.

Nếu người làm khác với việc như lúc trước tức bị điên cuồng, chẳng thành tựu.

Lại có pháp. Nếu muốn giáng phục Ma La Mārā: Loài Ma, kẻ hủy báng Bồ Tát Tạng với phát tâm Bồ Đề gia hạnh, người chê bai Phật Pháp… ở trước Tượng, hoặc trước đầu lâu người, nghiền đầu lâu thành bột làm hình của người ấy. Hướng mặt về phương Bắc, ở Xa Ma Xa Na Śma śana hoặc ở sông, hoặc ở ao… yên lặng đi xin thức ăn.

Dùng sự giận dữ đem chân trái đạp lên hình kẻ ấy, đem ngón út gạt ra, tụng bảy ngày, một ngày ba thời thì kẻ kia liền bị sốt rét nặng, khắp thân nổi mụn nhọt đến chết, chịu sự đau buốt, liền thấy Cật Lý Đa như lóng ngón cái bốc lửa mạnh mẽ, như nhóm ánh sáng vàng ròng.

Đem ngón tay Kỳ Khắc làm thế muốn ăn nuốt, dùng âm thanh báo khắp các phương: Người kia tên là… sai ta đến hại ngươi. Khi nói lời như vậy thì kẻ kia nhìn thấy xong, liền học máu mà chết.

Nếu đối với Phật Pháp sanh niềm tin trong sạch, tức ngưng dứt sự phẫn nộ, nếu ngưng dứt phẫn nộ tức sanh tâm hiền từ từ tâm. Tức người Trì Minh gấp rút dùng nước thơm rưới tắm Tượng Phật, niệm tụng khởi tâm từ, trong phút chốc dùng nước rưới vảy thì sự đau buốt vì bị thiêu đốt kia đều được ngưng dứt, lại được như cũ.

Thiện Nam Tử! Bồ Tát dùng phương tiện nên làm đối với kẻ gây tổn hại cho Tam Bảo.

Lại có pháp. Làm Pháp Tiên Sự, suy nghĩ lợi ích cho tất cả hữu tình, lìa sự dính mắc, không có sợ hãi, chẳng yếu hèn, tâm cứng mạnh chẳng hèn kém, trì giữ tám giới, được quán đảnh, biết Tam Muội Da, thường nên nhớ đến Như Lai với Bồ Tát, Thanh Văn.

Nói tội, tùy vui, an tượng ở Xa Ma Xa Na Śma śana, thân mặc áo đỏ, dùng hoa ở Xa Ma Xa Na trang nghiêm thân với cái đầu, lại ăn thức ăn ở Xa Ma Xa Na, trụ niệm không có hạn kỳ, niệm tụng, chẳng mất niệm, Nghi Quỹ của nhóm: Hộ phương ngung, giáp trụ, tường… như vậy niệm tụng.

Bảy ngày đầu, thấy hình ác đáng sợ, lòi răng nanh, tóc dựng đứng rực lửa. Hoặc có một chân, hai chân, ba chân, hai tay, ba tay, bốn tay, hoặc tám tay. Hoặc có hai đầu, ba đầu, bốn đầu… tức người trì minh giận dữ tụng thì lúc ấy như luồng gió lớn thổi đám mây tan tác bốn phương, liền khởi tâm từ.

Bảy ngày thứ hai, liền có người nữ hiện ra: Dáng dấp rất ưa thích, đoan chánh, Anh Lạc trang nghiêm… hiện bày hình sắc đáng yêu. Nhìn thấy xong, liền niệm tụng khởi tâm từ, tác bất tịnh quán, liền diệt mất chẳng hiện.

Bảy ngày thứ ba, liền thấy Tỳ Na Dạ Ca Vināyaka. La Sát có hình ác… yên lặng đi đến.

Đến rồi thì nói rằng: Bảo ta làm điều gì?

Người tu hành nói là: Làm phụng giáo tức liền làm Sứ Giả, sai khiến làm gì, đều y lời dạy làm xong. Nếu ma tác tâm phẫn nộ nhìn người tu hành, tức bị hoại diệt.

Phàm người làm tiên sự. Hoặc ở bên sông, hoặc ở bên ao hoa sen, hoặc ở dưới một cái cây, hoặc ở vườn hoa lớn… mà làm.

***