Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ
PHẬT THUYẾT
KINH NHU THỦ BỒ TÁT
VÔ THƯỢNG THANH TỊNH PHÂN VỆ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tường Công, Đời Tống
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy!
Bấy giờ Đức Thế Tôn du hóa tại khu vườn của ông Cấp Cô Độc trong thành Vương Xá ở nước Xá Vệ, cùng với năm trăm vị Đại Tỳ Kheo: Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Đại Ca Diếp, Tôn Giả Tu Bồ Đề, Tôn Giả A Nan…
Tất cả đều noi theo phẩm hạnh cao khiết của các bậc Trưởng Lão mà tu hành hạnh thanh tịnh, trừ bỏ những điều cấu uế. Học tập được các đức tính ấy rồi, liền chán ghét thân xấu ác, hiểu rõ lý nhân duyên, nên thấy chúng sinh chịu các khổ đau trong năm đường.
Tật bệnh, phiền não, hoạn nạn và vô số đồ dơ bẩn, ở trong ba cõi lúc nào cũng bất an, nên thường mong muốn lìa bỏ, nhận thấy các sự lưu chuyển, sinh tâm khiếp sợ, diệt trừ tất cả, hướng đến Niết Bàn rốt ráo, sinh ra bất cứ ở chỗ nào cũng được an lạc, đoạn hết lưới phiền não sinh tử, không còn các lậu hoặc, xa lìa gánh nặng, đạt được bốn thần túc, chứng đắc sáu thần thông, có khả năng giữ gìn thân mạng, được mất đều từ nơi tâm, vượt đến bờ bên kia, thản nhiên an lạc.
Lại cùng một ngàn vị Bồ Tát đều là bậc Đại Bồ Tát đáng tôn trọng, đều đạt được quả vị nhất sinh bổ xứ, mặc áo đại đức, hiện đáng được quả Phật, thị hiện Bồ Tát để tuyên dương hóa đạo, giảng Pháp tạng của Chư Phật, đạt được trí tuệ thần thông, Thánh tuệ thấu suốt, đều trụ vào bậc đại thừa, ý chí giống như hư không.
Các vị Bồ Tát ấy kiến lập giáo pháp rộng lớn, đến bờ bên kia, đầy đủ trí tuệ, thông suốt quyền yếu đã thấu rõ pháp Tổng trì, gồm hết không giới hạn, tích chứa các biện tài, không thể suy lường, tùy thuận thế tục để hướng dẫn, làm cầu rộng lớn.
Đạo đức vô thượng không có chướng ngại, tuyên dương diệu lý sâu xa cùng tận, thu phục oán ma và hàng phục ngoại đạo, qua lại tự tại khắp mười phương, du hóa trong năm đường mà lại không có đến đi, như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, như giấc mộng, như huyễn hóa, như ảnh trong gương, như tiếng vang trong núi, như sóng nắng… đều không tới lui, làm cảm ứng tất cả, cứu độ sinh tử, làm cho sự giáo hóa của Tam bảo không bao giờ dừng nghỉ, đạo được rộng khắp tất cả, đầy đủ công đức.
Các Bồ Tát ấy tên là Bồ Tát Nhu Thủ Đồng chân, Bồ Tát Long Thủ, Bồ Tát Diệu Thủ, Bồ Tát Đại Thủ, Bồ Tát Phổ Thủ, Bồ Tát Tuệ Thủ, Bồ Tát Minh Thủ, Bồ Tát Cam Thủ, Bồ Tát Anh Thủ, Bồ Tát Bảo Thủ…, tất cả gồm một ngàn vị Bồ Tát đông đủ.
Khi ấy, Bồ Tát Anh Thủ ngồi trên pháp tòa, thừa lãnh tôn chỉ của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, cung kính làm lễ, bày áo bên phải, quỳ gối sát đất, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn!
Bồ Tát Nhu Thủ Đồng chân, từ xưa đến nay, được vô số Chư Phật Như Lai và các Bậc Tiên Thánh đều chứng thần thông, đã cung kính khen ngợi những thành tựu đại sự của Bồ Tát trong ba đời, tinh tấn hành đạo không còn tạo nhân, làm thầy tất cả chúng sinh, hiểu rộng thấy xa, hóa đạo sâu xa sáng suốt giống như mặt trời, mặt trăng.
Trí tuệ như biển, vượt đến hư không, trí tuệ biện tài vô cùng, hiển bày công đức vô thượng, trưởng dưỡng bốn tâm vô lượng, bằng lòng từ bi làm lợi ích an lạc, nhân từ rộng lớn, bao la mênh mông, phước đức không có giới hạn, như biển không đáy, sâu rộng thênh thang, không có hình thể, an cư tịch tĩnh, khoan dung vô lượng, hiện thân Đức Phật giáo hóa rộng khắp trong mười phương, làm cho các Bồ Tát đều tôn trọng.
Tất cả Phạm Thiên, Đế Thích và bốn Thiên Vương, hoặc Cõi Trời Đâu Suất đều cung kính, ngưỡng mộ, tôn trọng. Các vị Trời, Rồng Thần, A Tu La, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hầu Lặc…, không điều gì mà không cung kính, được cung kính tôn trọng như một vị Vua ở đời, tướng Thánh đầy đủ, thông minh, đẹp đẽ vô cùng.
Con thấy Bồ Tát Nhu Thủ có các công đức đầy đủ, tất cả tốt đẹp, khó nghĩ khó bàn, con muốn ca ngợi, tỏ bày vô vàn sự mến mộ và khâm phục truyền khắp mười phương, trăm ngàn kiếp, không bao giờ mệt mỏi.
Khi ấy, Bồ Tát Nhu Thủ hỏi Bồ Tát Anh Thủ: Thế nào?
Này Thiện Nam! pháp thân có phiền não, mệt nhọc chăng?
Đáp rằng: Pháp Thân không có hình tướng, nơi chốn, nên pháp thân ấy đều không có phiền não, mệt nhọc.
Hỏi: Thế nào?
Này Bồ Tát Anh Thủ! Ông hiểu được pháp thân chăng?
Đáp: Pháp thân không có nơi chốn, ngôn ngữ, âm thanh, dấu vết, nên pháp thân ấy không điều gì mà không thấu hiểu.
Như tiếng vang trong núi, như ảnh trong gương, đâu có nơi chốn hiểu biết ư?
Hỏi: Nhận biết pháp thân ấy như huyễn hóa, như ảnh trong gương, không có điều gì mà không hiểu rõ, cũng không có điều gì mà không giảng nói được.
Làm thế nào hành giả lại cho là như âm thanh, như tiếng vang trong núi?
Chẳng qua là hành giả chấp vào ngôn ngữ văn tự mà thôi?
Đáp: Như Nhân Giả nói thì pháp thân ấy có trong ngoài, có đây đó, có khoảng giữa, có đếm được, đã ở vào hai điều ấy thì luôn luôn có xứ sở.
Bồ Tát Như Thủ nói: Lại nữa, này Bồ Tát Anh Thủ! Đối với pháp thân ấy đều không có tiếng vang, cũng không có hình tướng, không tâm không ý, không nhớ nghĩ, không nhận biết, không ngôn ngữ, không nói năng, không khác nhau, không giống nhau, không hướng đến, cũng không trở về một, ở trong một mà không phải là một, không có nơi chốn.
Như vậy, này Bồ Tát Anh Thủ! Pháp thân vốn không này là vi diệu, là chỗ quay về tận cùng của thế gian, vô thượng không gì bằng, là tạng pháp tôn yếu của đạo.
Khi ấy, Đức Phật ca ngợi Bồ Tát Nhu Thủ: Lành thay, lành thay! Như Nhu Thủ đã nói mới là điều ứng hợp với pháp thân thanh tịnh!
Lúc ấy, tại chỗ ngồi năm trăm vị Tỳ Kheo và năm trăm vị Tỳ Kheo Ni đều nghe Bồ Tát Nhu Thủ nói, tất cả đều được chứng đắc pháp nhẫn vô sinh.
Lại nữa, nước Xá Vệ có hai ngàn Thiện Nam, tín nữ vốn chưa phát tâm thực hành Đại Thừa, mà nay nghe pháp yếu này liền tự mình thực hành đạo vô thượng bồ đề kiên cố. Một vạn hai ngàn Thiên Tử hết sức vui mừng, phát tâm Bồ Tát, ở trong hư không tán thán sự thành tựu vô lượng phước đức ở quá khứ của Bồ Tát Nhu Thủ.
Khi ấy vào sáng sớm, Bồ Tát Nhu Thủ Đồng chân muốn đi vào thành khất thực nên sửa lại pháp y Thánh vô lượng thanh tịnh, tay bưng bình bát, nắm giữ tích trượng, noi theo Đức Phật, giữ gìn phép tắc, độ lượng nghiêm trang, bước đi thanh thản, cử chỉ đoan nghiêm, xoay người nhìn ngó, có ánh sáng vô lượng.
Các căn thanh tịnh thường định trong Thánh Đạo, oai nghi mẫu mực, lễ phép đàng hoàng, công đức đầy đủ, cử chỉ đàng hoàng, dũng mãnh như Sư Tử, như rồng chúa, phước đức rộng lớn lan tỏa khắp cả khu vườn, oai tướng vô lượng, đức hoàn hảo tuyệt diệu, tôn dung rực rỡ, phát ra ánh sáng tuyệt diệu.
Bồ Tát Nhu Thủ Đồng chân vừa ra khỏi cửa liền suy nghĩ: Hôm nay vào thành Xá Vệ ắt có các Bồ Tát trong mười phương đều đến, họ sẽ lãnh hội Thánh chỉ làm cảm hóa được mọi người.
Bồ Tát liền đứng yên thân mình, không lay động giống như Phật, mỗi một tướng lỗ chân lông trên thân đều hóa hiện một vị Bồ Tát. Các vị Bồ Tát ấy, thấy hóa thân của mình hóa hiện khắp mười phương.
Các hóa thân trong mỗi cõi nước, đồng thanh thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát Nhu Thủ này thường cung kính đảnh lễ thăm hỏi Đức Phật có khoẻ mạnh không?
Lại nữa, các đệ tử thị giả của các Đức Như Lai đều hết sức vui mừng.
Mỗi vị đều hỏi Đức Phật ấy: Bồ Tát kia từ đâu mà xuất hiện ở cõi này?
Các Đức Phật trả lời các thị giả: Có cõi nước tên là Kham nhẫn, có Đức Phật Hiệu là Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Có Bồ Tát tên là Nhu Thủ, đạo tuệ khó lường, biện tài vô lượng, hóa hiện truyền bá Phật sự khắp nơi, ở trong cõi này làm hưng thịnh đạo lớn, dùng tướng của các lỗ chân lông trong thân mà hóa hiện thân này. Nói lên những sự cảm ứng, để cho mọi người diệt hết các nghi hoặc.
Bồ Tát và chúng sinh ở khắp các cõi thấy điều biến hóa đó và được nghe Đức Phật giảng, ức kiếp Bồ Tát đều đắc pháp nhẫn vô sinh. Ngàn ức chúng sinh bị luân hồi trong sinh tử, nghe được danh hiệu của Bồ Tát Nhu Thủ, lại thấy sự ứng hóa ấy, đều phát tâm hướng về đạo Vô Thượng Chánh Chân. Bồ Tát khắp mười phương hết sức vui mừng, nguyện được gặp Bồ Tát Nhu Thủ để lãnh hội những điều trong sáng mà trước đây đã từng nghe nói là pháp vi diệu.
Hôm nay được trông thấy Đức Phật này và Bồ Tát kia, vô số Bồ Tát ở các cõi đều thưa Đức Thế Tôn: Chúng con muốn đến Cõi Kham Nhẫn, gặp Đức Phật Năng Nhân để lễ bái cung kính cúng dường, được thấy Bồ Tát Nhu Thủ, và được nghe nói pháp.
Các Đức Phật đều im lặng, ngay lúc ấy các Bồ Tát liền lãnh hội lời dạy và thực hiện năng lực của các Bậc Thánh, bay khỏi cõi ấy, bỗng chốc đến Cõi Kham Nhẫn, đến chỗ Bồ Tát Nhu Thủ.
Các Bồ Tát ấy hết lòng kính ngưỡng, hoặc cầm hoa trời, hoặc đưa viên ngọc báu lên hoặc dâng chuỗi ngọc, hoặc chắp tay ngay thẳng, hoặc tấu lên âm nhạc của trời, hoặc đứng thẳng hàng trong hư không rải hoa, hương bột, thổi tù và bằng ngọc kha, hoặc ca tụng Bồ Tát Nhu Thủ đã hiển bày công đức vô thượng khắp tất cả, hoặc muốn tiếp đón hộ vệ Bồ Tát Nhu Thủ, cung kính mà đi, chiêm ngưỡng không nhàm chán.
Lúc ấy, Đế Thích, Phạm vương và bốn vị Thiên vương Nhật Nguyệt Thiên Tử, các Rồng, Quỷ Thần đều cùng thuộc hạ của họ đến nơi ấy.
Đế Thích và bốn Thiên vương đều suy nghĩ: Hôm nay, Bồ Tát Nhu Thủ Đồng chân cùng với vô số Bồ Tát và các bậc ở Cõi Trời, Người đi vào nước Xá Vệ làm chấn động lớn, ta hãy làm cho tất cả đường sá trong thành Xá Vệ, làm cho nơi ấy bằng phẳng, không có cao thấp, hai bên đường có bảy loại cây báu thẳng hàng, ở giữa mỗi cây có bảy ngọc nữ, đều hiện ra nửa thân, để tấu lên âm nhạc.
Những ngọc nữ ấy dung nhan xinh đẹp, dáng dấp, mặt mày tươi sáng như sắc hoa, đôi mắt như ngọc châu sáng, đoan nghiêm xinh đẹp lạ thường, giọng nói trong trẻo, lời lẽ dịu dàng để ca ngợi Bồ Tát Nhu Thủ phước đức vô lượng, thanh tịnh thuần nhất, các hạnh đạo đức, phẩm chất của Bồ Tát. Đặt lư hương để đốt hương mật ở Cõi Trời, đặt nhiều hoa xen nhau để cúng dường.
Bấy giờ, phía bên trái của Đạo Tràng có các loại độc như: Ong, trùng, trăn, rắn độc, muỗi vằn, ong chích, bò cạp…, ngay lúc ấy bỗng nhiên chúng bị tiêu diệt hết các tánh của loài thú dữ, trở lại hiền lành, chim chóc tụ tập, bay quanh đua hót.
Khi ấy, Bồ Tát Nhu Thủ vì vô số trăm ngàn Bồ Tát và Chư Thiên, loài người vây quanh nơi ấy, mà hiển hiện uy nghi vô lượng ánh sáng như Mặt Trời vừa mới mọc trên núi cao, như ánh trăng tròn ở giữa các vì sao, như núi Tu Di khác với các ngọn núi khác, như Sư Tử xuất hiện trong rừng sâu, dung nhan rực rỡ tiến tới. Bồ Tát vừa mới đặt chân vào cửa thành thì khắp nơi chấn động.
Bấy giờ, nơi ấy tất cả đều kinh ngạc, những thứ âm nhạc ở nơi ấy lần lượt tự vang lên, đều nói lên đây là điềm lành lớn gì vậy, điều này chưa từng có, hay là Phật sắp vào thành nên có cảm ứng chăng?
Cả nước, người lớn, nhỏ đều vừa kinh sợ vừa hoan hỷ, tâm hớn hở vui mừng, cung kính vô cùng, hoặc lên trên lầu gác, hoặc trèo trên tường vách, hoặc nhìn qua cửa sổ, hoặc ra khỏi cửa và cùng nhau vui mừng, hướng về Phật mong thấy sự thần dị. Khi ấy, Vua Ba Tư Nặc cùng với hoàng hậu và tám ngàn người thể nữ trong cung điện, các Thái Tử, quần thần, quyến thuộc, một vạn người tùy tùng đi theo đều hết sức vui mừng hớn hở.
Trong một khoảnh khắc, Bồ Tát Nhu Thủ bỗng nhiên đi đến, được các Bồ Tát và Trời, Người tôn quý hộ vệ, đầy đủ các tướng xinh đẹp, tôn nhan đẹp đẽ, ai thấy cũng đều vui thích, cùng nhau đảnh lễ.
Những người đến đó, trong ấy có người rải hoa, hoặc đốt hương thơm, hoặc trải y báu, tâm rất cung kính, chiêm ngưỡng vô cùng. Lúc ấy, Bồ Tát Nhu Thủ liền đi vào trong thành trước, các Bồ Tát tôn quý, trời, thần có thế lực, đều im lặng cung kính, đi theo để nhìn thấy sự thần biến, lại muốn thọ nhận lời dạy của Bồ Tát.
Bấy giờ, Bồ Tát Long Thủ thấy Bồ Tát Nhu Thủ có vô số chúng sinh vây quanh, uy nghi, đẹp đẽ oai nghiêm và cùng nhau đi vào trong thành nên thưa Bồ Tát Nhu Thủ: Vì việc gì mà đến?
Bồ Tát Nhu Thủ trả lời Bồ Tát Long Thủ: Tôi đến thành này là muốn đi khất thực. Vì thương mến và nghĩ đến lợi ích của họ, vì muốn cứu giúp thế gian và tất cả Trời, Người nên thị hiện đi khất thực, để dẫn dắt mọi người được thành tựu lớn.
Bồ Tát Long Thủ hỏi: Vì sao?
Thưa Bồ Tát Nhu Thủ, đến nay, đối với việc khất thực, Ngài chưa dứt được tưởng chăng?
Đáp: Thưa Thiện Nam! Tôi đoạn dứt rồi. Đối với hữu kiến nên tưởng về đi khất thực, đạt đến vô kiến thì không đoạn cũng không bị đoạn. Đó là khất thực thanh tịnh của Bồ Tát.
Vì sao?
Này Bồ Tát Long Thủ! Nếu vậy thì tất cả các pháp không đoạn không bị đoạn. Ví như hư không, không đoạn không bị đoạn. Do đó nên nói không thể đoạn, đều là cảnh giới cuối cùng của Ma, Phạm. Tất cả mọi nhà và các Vua Phạm chí, cùng thứ dân cũng không thể đoạn.
Vì sao vậy Bồ Tát Long Thủ?
Vì các pháp ấy giống như hư không, vốn là không, vốn không thật có, không phát khởi, không lay động, không giữ gìn, không đạt được. Không vốn không đạt được, cũng không có chỗ nắm giữ, cũng không thể nắm bắt được.
Nói tóm lại, tất cả các loại và các pháp khác ở đời, ngoại đạo, tà thuật đều là không thật có, không nắm giữ, không nắm bắt được, cũng không thể đạt được. Các pháp như vậy đều không thể nắm bắt được, cũng không thể giữ gìn.
Do nó vốn là không, cho nên không thể đoạn.
Hỏi: Vì sao?
Thưa Bồ Tát Nhu Thủ! Đại Bồ Tát sẽ làm oán địch với các ma chăng?
Đáp: Thưa Bồ Tát Long Thủ! Pháp vốn không có tranh chấp, nên không thấy Bồ Tát và các ma đấu tranh. Nếu Bồ Tát và các ma ấy là oán địch là do khởi lên cái tưởng chấp có pháp, nên có chiến tranh, Bồ Tát liền khiếp sợ.
Vì sao như vậy?
Vì Bồ Tát tự mình lo sợ. Này Bồ Tát Long Thủ, ví như ảo thuật gia biến hóa ra các vật. Các vật do hóa hiện, như vậy nên không có khiếp sợ. Này Bồ Tát Long Thủ, Bồ Tát hiểu rõ pháp vốn không, không chấp trước vào các pháp hữu vi thì không sợ hãi. Nếu Bồ Tát có sợ hãi thì Bồ Tát ấy không làm ruộng phước cho đời. Vì Bồ Tát này không hiểu rõ về pháp không, nên tự mình khởi tâm khiếp sợ.
Lúc ấy, Bồ Tát Long Thủ hỏi: Bồ Tát Nhu Thủ, Bồ Tát có thể chứng đạo chăng?
Đáp: Bồ Tát có thể chứng đắc đạo.
Bồ Tát Long Thủ hỏi: Vì sao?
Thưa Bồ Tát Nhu Thủ! Ai là người có thể chứng đắc đạo?
Đáp: Không tên, không họ, cũng không danh hiệu và cũng không có xứ sở, vĩnh viễn cũng không có nơi chốn, cũng không có thủ đắc.
Đó có thể đạt được đạo.
Hỏi: Làm thế nào Bồ Tát sẽ đạt được đạo?
Đáp: Này Bồ Tát Long Thủ! Nếu có Bồ Tát muốn đạt đến đạo thì không còn phát tâm, không nghĩ về đạo, cũng không tưởng về Đạo Tràng, không nhớ nghĩ về cõi người, tâm cũng không có xứ sở, không có nhớ nghĩ, không có thủ đắc, cũng không chấp trước và cũng không có kiến chấp. Bồ Tát thực hành như vậy mới có thể chứng đắc được đạo.
***