Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phạm Thiên Thưa Hỏi

PHẬT THUYẾT

KINH PHẠM THIÊN THƯA HỎI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẦN BA
 

Đức Như Lai lại bảo Phạm Thiên Thắng Tư Duy: Này Phạm Thiên! Như Lai vượt ra ngoài thế gian mà giảng nói về thế gian, về tập của thế gian, về diệt của thế gian, về diệt đạo của thế gian.

Này Phạm Thiên! Nói về thế gian thì Như Lai giảng nói về năm ấm gọi là thế gian. Tham đắm nơi năm ấm gọi là tập của thế gian. Năm ấm diệt tận gọi là diệt của thế gian. Quan sát năm ấm không thấy có hai pháp gọi là diệt đạo của thế gian.

Lại nữa, này Phạm Thiên! Gọi là năm ấm, thì năm ấm chỉ có nơi lời nói. Trong ấy, chấp giữ theo ngôn ngữ, tà kiến gọi là thế gian. Không xả bỏ kiến chấp ấy gọi là tập của thế gian.

Thấy được tự tướng đó gọi là diệt của thế gian. Tùy chỗ theo con đường nào, không giữ lấy kiến chấp kia, gọi là diệt đạo của thế gian.

Này Phạm Thiên! Ý của Như Lai là ở chỗ này. Vì thế Như Lai nay đối với thân tướng mà thuyết giảng về khổ của thế gian, về tập, diệt, diệt đạo của thế gian.

Phạm Thiên Thắng Tư Duy bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như điều Ngài giảng nói, về bốn Thánh Đế con chưa rõ, có phải là Thánh Đế đích thật không?

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Gọi là Khổ đế, không phải là Thánh Đế đích thật. Gọi là khổ tập đế, không phải là Thánh Đế đích thật.

Này Phạm Thiên! Gọi là khổ diệt đế, không phải là Thánh Đế đích thật. Gọi là diệt khổ đạo đế cũng không phải là Thánh Đế đích thật.

Này Phạm Thiên! Nếu Khổ kia là Thánh Đế đích thật, thì tất cả loài súc sinh như bò, heo… phải có thật đế.

Vì sao?

Vì các loại ấy đều chịu mọi sự thổng khổ. Do ý nghĩa này mà nói khổ không phải là thật đế. Nếu nói tập kia là Thánh Đế đích thật, thì chúng sinh trong sáu đường phải có thật đế.

Vì sao?

Vì nhân nơi tập ấy mà sinh ra các đường. Do ý nghĩa này nên tập không phải là thật đế. Nếu cho là diệt kia là Thánh Đế đích thật, thì tất cả thế gian rơi vào tà kiến, là châp đoạn tức nói pháp diệt nên có thật đế.

Vì sao?

Vì các thuyết ấy nói pháp diệt là Niết Bàn. Do ý nghĩa này nên nói diệt không phải là thật đế. Nếu cho đạo kia là Thánh Đế đích thật, thì nhân duyên nơi tất cả pháp hữu vi phải có thật đế.

Vì sao?

Vì do nương nơi pháp hữu vi mà cầu xa lìa pháp hữu vi. Do ý nghĩa này nên đạo không phải là thật đế.

Này Phạm Thiên! Do đó nên biết: Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế không phải là Thánh Đế đích thật.

Này Phạm Thiên! Thánh Đế đích thật biết khổ là vô sinh, gọi là khổ Thánh Đế đích thật. Biết tập là không hòa hợp, gọi là tập Thánh Đế đích thật, ở trong pháp diệt rốt ráo, nhận biết rõ là không sinh không diệt, gọi là diệt Thánh Đế đích thật. Đối với tất cả các pháp bình đẳng, không dùng hai pháp mà chứng đạo, đó gọi là đạo Thánh Đế đích thật.

Này Phạm Thiên! Thánh Đế đích thật không phải là vọng ngữ, không phải là thật ngữ.

Thế nào là vọng ngữ?

Đó là chấp về ngã, chấp về chúng sinh, chấp về thọ mạng, chấp nơi trượng phu, chấp về người, chấp thường, chấp đoạn, chấp có, chấp lìa có, chấp sinh, chấp diệt, chấp về sinh tử, chấp về Niết Bàn. Đó gọi là vọng ngữ.

Nếu không chấp nơi các nhận thức như vậy, không tiếp xúc theo các kiến giải như vậy, không giữ lấy các kiến giải như vậy, thì đó gọi là thật ngữ.

Này Phạm Thiên! Nếu hành giả nói Như Lai biết rõ khổ thì gọi là vọng ngữ. Nếu hành giả nói Như Lai đoạn trừ tập thì gọi là vọng ngữ. Nếu hành giả nói Như Lai chứng đắc diệt thì gọi là vọng ngữ. Nếu hành giả nói Như Lai tu tập đạo thì gọi là vọng ngữ.

Vì sao?

Vì đã không tùy thuận nơi chỗ nhớ nghĩ đúng về Như Lai, nên gọi là vọng ngữ.

Này Phạm Thiên! Sao gọi là tùy thuận nơi chỗ nhớ nghĩ đúng về Như Lai?

Đó là không nhớ nghĩ về tất cả các pháp. Nếu không nhớ nghĩ về tất cả các pháp, thì gọi là tùy thuận nơi chỗ nhớ nghĩ đúng về Như Lai. Nếu hành giả an trụ trong sự nhớ nghĩ ấy, tức là không trụ nơi tất cả tướng.

Nếu chẳng trụ nơi tất cả tướng, tức là trụ ở thật tế. Nếu trụ ở thật tế, gọi là chẳng trụ chấp nơi tâm. Nếu chẳng trụ chấp nơi tâm thì người ấy gọi là chẳng phải thật ngữ, chẳng phải vọng ngữ.

Này Phạm Thiên! Do đó nên biết, nếu không phải là thật ngữ, không phải là vọng ngữ thì đấy gọi là Thánh Đế đích thật của bậc Thánh.

Này Phạm Thiên! Nói về điều chân thật thì xưa nay vốn là như thế, dù Phật ra đời hay không ra đời, thì pháp tánh vốn thường như vậy. pháp Giới cũng thường hằng như thế. Niết Bàn, thế gian cũng thường như vậy. Do đó, gọi là Thánh Đế đích thật.

Vì sao?

Vì không phải xa lìa sinh tử gọi là Thánh Đế, cũng không phải chấp thủ Niết Bàn gọi là Thánh Đế.

Này Phạm Thiên! Nếu người nào chứng ngộ về bốn Thánh Đế như vậy thì gọi là thật ngữ.

Này Phạm Thiên! Về đời vị lai có các Tỳ Kheo không tu tập về thân, không tu tập về giới, không tu tập về tâm, không tu tập về tuệ, những người ấy giảng nói tướng sinh là Khổ Đế, các duyên hòa hợp là Tập Đế, pháp diệt là Diệt Đế, dùng hai pháp mà cầu tướng là Đạo Đế.

Này Phạm Thiên! Như Lai gọi những người ấy là kẻ ngu si, là hàng ngoại đạo, rơi vào đường ác, Như Lai không phải là thầy của họ, họ không phải là đệ tử Thanh Văn của Như Lai. Những kẻ như vậy đã theo ngoại đạo, tà kiến, phá hoại chánh pháp nên nói là có Thật Đế.

Này Phạm Thiên! Hãy quán xét lúc Như Lai thành tựu đạo quả, không thủ đắc một pháp nào gọi là thật ngữ, là vọng ngữ.

Nếu Phật không thủ đắc một pháp nào thì trong chúng hội đã chẳng có các pháp để Như Lai thuyết giảng, luận bàn, dạy bảo chăng?

Phạm Thiên thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! 

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Do các pháp không có đối tượng để thủ đắc, các pháp luôn lìa tự tánh, nên sự giác ngộ của Như Lai là không có tướng tham ái.

Phạm Thiên Thắng Tư Duy bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai đối với các pháp không có đôi tượng để thủ đắc, vậy do ý nghĩa nào để nói Như Lai thành tựu đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, gọi là Phật?

Chứng đạt pháp gì để nói Như Lai là bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri?

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Ý ông nghĩ sao?

Pháp Như Lai giảng nói, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, pháp ấy là thật, là hư vọng chăng?

Phạm Thiên thưa: Bạch Thế Tôn! Pháp ấy là hư vọng, không phải là thật, Tu Già Đà, pháp ấy là hư vọng, chẳng phải là thật.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Ý ông nghĩ sao?

Nếu pháp là hư vọng, không thật, thì pháp ấy là có hay là không?

Phạm Thiên đáp: Bạch Thế Tôn! Nếu pháp là hư vọng, thì pháp ấy không nên nói là có, không nên nói là không.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Ý ông nghĩ sao?

Nếu pháp không phải là có, không phải là không, thì pháp ấy có chứng đắc chăng?

Phạm Thiên đáp: Bạch Thế Tôn! Nếu pháp là không, thì pháp ấy không thể nói là có, không thể nói là không.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Nếu pháp không phải là có, không phải là không, thì pháp ấy làm sao chứng đắc?

Phạm Thiên đáp: Bạch Thế Tôn! Pháp ấy không thể chứng đắc.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Lúc Như Lai thành tựu đạo quả chính là nhận biết về chỗ hư vọng điên đảo, dấy khởi các thứ phiền não, cấu nhiễm đều rốt ráo là không sinh, lấy chỗ không thủ đắc để chứng đắc, lấy chỗ không chấp về nhận biết để nhận biết.

Vì sao?

Này Phạm Thiên! Vì pháp do Như Lai chứng đắc thì không thể thấy, không thể nghe, không thể giác ngộ, không thể nhận biết, không thể nhớ nghĩ, không thể nắm giữ, không thể chấp trước, không thể nêu bày, không thể vấn nạn, vượt ra ngoài tất cả cảnh giới, không ngôn từ, không giảng nói, không hành, không cầu, không có văn tự, không có đường ngôn ngữ, chẳng phải là cảnh giới của nhận thức không có văn tự, nên không phải là chỗ nêu giảng của ngôn ngữ.

Này Phạm Thiên! Pháp ấy như thế là giống như hư khống.

Ông có muốn ở trong pháp như thế mà đạt được sự chứng đắc chăng?

Phạm Thiên đáp: Dạ không, bạch Thế Tôn! Các Đức Phật, Như Lai thật là hiếm có. Pháp mà các Ngài thành tựu là chưa từng có, không thể nghĩ bàn, các Ngài hội nhập sâu trong cõi đại từ, đại bi mà chứng đắc pháp tướng tịch diệt như vậy, rồi dùng ngôn ngữ, văn tự để chỉ dạy mọi người khiến họ cũng chứng đắc.

Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào nghe được pháp ấy mà có thể tin, hiểu, thì nên biết người này không phải từ chỗ ít công đức mà đạt được.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì pháp ấy đối với tất cả thế gian là chỗ khó tin.

Vì sao?

Vì thế gian không thể tin hiểu nổi pháp như vậy.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Tại sao pháp ấy đối với tất cả thế gian là chỗ khó tin?

Phạm Thiên đáp: Bạch Thế Tôn! Vì thế gian tham chấp nơi đế, mà pháp ấy thì không phải như vậy. Pháp ấy không phải là thật, không phải hư vọng. Vì thế gian tham chấp nơi pháp mà pháp đó không phải là pháp, không phải là phi pháp.

Vì thế gian tham chấp nơi Niết Bàn, nhưng pháp đó không phải là sinh tử, không phải là Niết Bàn. Vì thế gian tham chấp nơi pháp Thiện, nhưng pháp ấy không là thiện, cũng không phải là không thiện. Vì thế gian tham chấp nơi an lạc, mà pháp ấy không khổ não, không an lạc.

Vì thế gian tham chấp nơi Phật ra đời, nhưng pháp đó không có Phật ra đời, cũng không có Niết Bàn, tuy có nói về pháp mà pháp đó không thể nói về tướng, tuy có tán thán về Tăng mà Tăng tức là vô vi, cho nên pháp ấy đối với tất cả thế gian là chỗ khó tin.

Bạch Thế Tôn! Ví như trong nước phát ra lửa, trong lửa phát ra nước, điều đó rất là khó tin. Như vậy, trong phiền não có bồ đề, trong bồ đề có phiền não, cũng là khó tin.

Vì sao?

Vì Đức Như Lai chứng đắc tánh của phiền não là hư vọng nên không có pháp nào để có thể chứng đắc. Tuy có giảng nói pháp mà không thể nhận thức. Tuy có chỗ biết mà không phân biệt. Tuy chứng đắc Niết Bàn mà không có đối tượng được nhận biết.

Tuy tu tập các hành mà không tạo nên hai tướng. Tuy có pháp chứng đắc mà không có đối tượng được thủ đắc. Tuy diệt trừ các chướng ngại mà không có đối tượng được diệt trừ.

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào có thể tin hiểu về ý nghĩa của pháp như thế, thì nên biết người ấy đã vượt khỏi các thứ kiến chấp.

Nên biết người ấy đã từng thân cận, cúng dường vô lượng Chư Phật.

Nên biết người ấy được các bậc Thiện Nhân hộ trì, vì được tất cả các hàng thiện tri thức hộ niệm.

Nên biết người ấy tin tưởng nơi pháp Đại Thừa vi diệu, do các thiện căn tốt đẹp luôn được tăng trưởng.

Nên biết người ấy khéo đạt được pháp tài nơi kho báu vi diệu lớn lao, do có thể giữ gìn pháp tạng của Chư Phật.

Nên biết người ấy luôn tùy thuận chỗ tạo tác, hành hóa do có thể khéo tạo tác, thực hành các pháp.

Nên biết người ấy thuộc dòng họ tôn quý, do được sinh nơi nhà của Như Lai.

Nên biết người ấy có thể thực hành hạnh xả lớn, do dứt bỏ tất cả các thứ phiền não.

Nên biết người ấy đạt được diệu lực giữ giới, vì không khởi tâm phá hủy giới pháp.

Nên biết người ấy có được diệu lực nhẫn nhục, do có thể xả bỏ thân mạng.

Nên biết người ấy đạt được diệu lực tinh tấn, dơ không hề sinh tâm mỏỉ mệt.

Nên biết người ấy đạt được diệu lực thiền định, do đã thiêu đốt tất cả pháp bất thiện.

Nên biết người ấy có được diệu lực trí tuệ, do lìa bỏ tất cả các nẻo hành kiến.

Nên biết người ấy không bị người khác làm cho thất bại, do đã vượt qua mọi cảnh giới của ma.

Nên biết người ấy không bị kẻ oán thù chế ngự, do đã xa lìa bao thứ đối địch.

Nên biết người ấy không lừa dối thế gian, do không hề lừa dối Như Lai.

Nên biết người ấy luôn nói lời chân chánh, vì có thể khéo nói tự tánh của các pháp.

Nên biết người ấy luôn nói lời đúng thật, vì đã giảng nói về đệ nhất nghĩa với thật tướng của các pháp.

Nên biết người ấy được các bậc thiện tri thức hộ niệm, do đã được sự hộ niệm của các Đức Như Lai.

Nên biết người ấy luôn hòa nhã hiền dịu, do cùng được an trụ nơi chốn an lạc, tốt đẹp.

Nên biết người ấy là hàng đại phú quý, do có được pháp tài của Bậc Thánh.

Nên biết người ấy thường có thể biết đủ vì đã có đủ hạnh nơi Thánh chủng.

Nên biết người ấy dễ viên mãn, dễ nuôi dưỡng, do xa lìa mọi tham muốn về ăn uống.

Nên biết người ấy có được diệu lực an nhẫn, do đã đạt đến bến bờ giác ngộ.

Nên biết người ấy là bậc cứu độ, do có thể hóa độ những người chưa được hóa độ.

Nên biết người ấy là bậc thấu đạt, do có thể giảng giải cho những người chưa được hiểu biết.

Nên biết người ấy là bậc an lạc, do có thể tạo an lạc cho những người chưa được an ổn.

Nên biết người ấy là bậc vắng lặng, do có thể khiến những người chưa giải thoát đạt được giải thoát.

Nên biết người ấy là bậc chỉ bày, do có thể chỉ bày về chánh đạo.

Nên biết người ấy là bậc biết rõ về chánh đạo, do có thể độ thoát những người chưa được độ thoát.

Nên biết người ấy là bậc Đại Y Vương, do khéo nhận biết về các loại thuốc pháp.

Nên biết người ấy là loại thuốc hay, vì có thể chữa trị các bệnh phiền não của chúng sinh.

Nên biết người ấy có uy lực lớn, do có diệu lực về trí tuệ.

Nên biết người ấy có uy lực không thoái chuyển, do có được pháp kiên cố, rốt ráo.

Nên biết người ấy có sức mạnh tinh tấn, do thường tu tập, không nương tựa vào kẻ khác.

Nên biết người ấy như Sư Tử, do xa lìa mọi thứ sợ hãi.

Nên biết người ấy giống như Rồng lớn, do tâm khéo điều phục, nhu hòa.

Nên biết người ấy như loài voi lớn, do khéo chế ngự tâm ý.

Nên biết người ấy như ngưu vương, do khéo dẫn đường cho đại chúng.

Nên biết người ấy là bậc dũng mãnh lớn, do có thể phá trừ các thứ ma oán.

Nên biết người ấy là bậc không còn sợ hãi, do đã xa lìa sự sợ hãi của đại chúng.

Nên biết người ấy không còn chỗ lo sợ, do đạt được pháp không sợ hãi.

Nên biết người ấy không hề ngại khó khăn, do có thể diễn bày về pháp thật.

Nên biết người ấy như mặt trăng sáng, do đạt đầy đủ các pháp thiện.

Nên biết người ấy như mặt trời tỏa chiếu, do có ánh sáng trí tuệ soi chiếu khắp.

Nên biết người ấy như ngọn đèn sáng, do xa lìa tất cả nơi chốn tối tăm.

Nên biết người ấy tâm kiên cố như đại địa, do đã xa lìa tâm yêu ghét.

Nên biết người ấy bình đẳng như đất, do có thể dung nạp tất cả chúng sinh.

Nên biết người ấy chẳng trú như gió, do không tham đắm các pháp.

Nên biết người ấy trong sạch như nước, do đã rửa sạch tất cả cấu bẩn của phiển não.

Nên biết người ấy như ngọn lửa mạnh, do đã thiêu đốt hết thảy mọi ý niệm loạn động.

Nên biết người ấy như núi Tu Di, do tâm được kiên cố không gì có thể lay động.

Nên biết người ấy bền chắc như kim cương, vì luôn vững chắc như núi Thiết Vi, không thể hủy hoại.

Nên biết người ấy là không thể hàng phục, do tất cả mọi thứ oán thù đều không thể chế ngự được.

Nên biết người ấy là không thể định lượng, do không phải là chỗ định lượng của hàng Nhị Thừa.

Nên biết người ấy có nhiều vật báu như biển, do tạo nhiều lợi ích quý giá cho chánh pháp.

Nên biết người ấy như biển lớn, do đã diệt tận hết thảy mọi phiền não.

Nên biết người ấy không hề chán đủ, do thường cầu pháp không chút nhàm chán.

Nên biết người ấy là bậc viên mãn, do có trí tuệ nhận biết đầy đủ các pháp.

Nên biết người ấy như bậc Chuyển Luân Vương, do có thể chuyển pháp luân.

Nên biết người ấy như Vua Đế Thích, do có thể giữ gìn sắc thân.

Nên biết người ấy như Vua Phạm Thiên, do đạt được mọi tự tại.

Nên biết người ấy là bậc tuôn xuống mưa lớn, do có thể tuôn các trận mưa chánh pháp.

Nên biết người ấy là bậc tuôn mưa Cam Lồ, do mưa pháp Cam Lồ cho mọi chúng sinh.

Nên biết người ấy là bậc có thể tự tăng trưởng, do đạt được các căn, lực, giác phần.

Nên biết người ấy đã đến bờ giác ngộ, do có thể vượt qua mọi nẻo chìm đắm của thế gian.

Nên biết người ấy đã hội nhập nơi bờ giải thoát, do có thể vào sâu nơi trí tuệ của Phật.

Nên biết người ấy đã gần đến đạo quả vô thượng, do gần đến nẻo giác ngộ của Phật.

Nên biết người ấy không gì sánh bằng, do có được đầy đủ trí tuệ tăng trưởng viên mãn.

Nên biết người ấy không gì hơn, do có được văn tuệ không gì vượt hơn.

Nên biết người ấy là không thể lường tính, do vượt qua mọi lãnh vực đo lường.

Nên biết người ấy không có chướng ngại, do ưa thích biện thuyết không hề bị ngưng trệ.

Nên biết người ấy luôn nhớ nghĩ vững chắc, do có được đầy đủ diệu lực về nghe, giữ.

Nên biết người ấy là bậc có thể đi tới, do có thể tùy thuận theo nghĩa.

Nên biết người ấy đạt được thiện ý, vì có thể quan sát, thâm nhập nơi chánh pháp.

Nên biết người ấy nhận biết rõ về chúng sinh, do biết được tâm ý của chúng sinh.

Nên biết người ấy luôn siêng năng tinh tấn, do đã tạo mọi lợi ích, an lạc cho thế gian.

Nên biết người ấy đã vượt khỏi thế gian, do tâm người ấy đã vượt qua thế gian.

Nên biết người ấy không thể bị cấu nhiễm, vì tâm thanh tịnh như hoa sen.

Nên biết người ấy không hề bị che phủ, do không bị tám pháp thế gian che chắn.

Nên biết người ấy luôn được an vui, yêu quý, do được các bậc trí tuệ yêu quý.

Nên biết người ấy là bậc đáng quý trọng, do có trí tuệ hiểu biết rộng, đáng được quý trọng.

Nên biết người ấy được nhiều người khác cúng dường, do được các bậc trí tuệ nhận biết.

Nên biết người ấy là bậc được cúng dường, do đã được hàng trời, người cúng dường.

Nên biết người ấy có thể làm nơi quy mạng, do có thể làm chôn nương tựa cho các chúng sinh.

Nên biết người ấy được các bậc thiện tri thức kính quý, do đã được các Bậc Thánh quý kính.

Nên biết người ấy đang được thỉnh cầu, do đã được hàng nhị thừa cúng dường.

Nên biết người ấy xa lìa mọi sự mong cầu, do đã xa lìa tất cả nẻo hành hóa của hàng Nhị Thừa.

Nên biết người ấy không hề có dua nịnh, tà vạy, do không còn một chút pháp cấu uế, tà vạy.

Nên biết người ấy là bậc đoan nghiêm, do đã thành tựu đầy đủ mọi oai nghi.

Nên biết người ấy là bậc hết mực đáng yêu kính, do đã vượt khỏi hết thảy sắc tướng nơi thế gian.

Nên biết người ấy là bậc đáng nương tựa, do có đầy đủ oai đức.

Nên biết người ấy có đầy đủ mọi trang nghiêm, do thân có đủ các tướng trang nghiêm.

Nên biết người ấy là bậc thân tướng có nhiều màu sắc, do có đủ tám mươi vẻ đẹp kèm theo.

Nên biết người ấy là bậc có thể hộ trì, do có thể hộ trì chủng tánh của Phật.

Nên biết người ấy là bậc có thể thâu nhận, do chẳng đoạn trừ hạt giống của Pháp Phật.

Nên biết người ấy có thể ngăn chận các điều ác, do luôn luôn hộ trì các hàng Thánh Tăng. Người ấy được gặp Chư Phật, đạt được pháp nhãn, được Chư Phật thọ ký, đạt đầy đủ ba nhẫn, thành tựu trọn vẹn đạo quả, hàng các thứ ma, có được nhất thiết trí, có thể chuyển pháp luân, thường thực hành các Phật Sự.

***