Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phạm Thiên Thưa Hỏi

PHẬT THUYẾT

KINH PHẠM THIÊN THƯA HỎI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẦN MƯỜI
 

Bây giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Lành thay, lành thay! Này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Như Lai rất vui với những lời giảng nói của ông.

Đúng vậy, đúng vậy! Này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Lúc ông giảng nói pháp này có bảy ngàn Tỳ Kheo không thọ nhận các pháp, lậu hoặc đã diệt tận và tâm được giải thoát. Lại có ba vạn hai ngàn Chư Thiên xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đạt được pháp nhãn thanh tịnh.

Lại có mười ngàn người lìa dục được định. Lại có hai trăm người phát tâm cầu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Bấy giờ, Phạm Thiên Thắng Tư Duy bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi này có thể làm nhiều việc Phật để tạo lợi ích cho chúng sinh, khiến vô lượng chúng sinh hội nhập trong Niết Bàn.

Đức Phật dạy: Này thiện nam! Ông cũng làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, khiến họ vào Niết Bàn.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này Phạm Thiên! Theo ông, chúng sinh có sổ lượng không?

Đáp: Không.

Hỏi: Này Phạm Thiên! Như Lai có nói về chúng sinh không?

Lại có chúng sinh, có thể tánh của chúng sinh không?

Đáp: Không.

Hỏi: Này Phạm Thiên! Ý ông nghĩ sao?

Như Lai có sinh có diệt không?

Đáp: Không.

Hỏi: Này Phạm Thiên! Nếu là như vậy thì các chúng sinh nào Đức Như Lai khiến họ nhập nơi Niết Bàn?

Đáp: Do các pháp tánh.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thuyết pháp như vậy là không có thế gian, không có Niết Bàn.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này Phạm Thiên! Đúng vậy, đúng vậy, Đức Như Lai không thấy thế gian, không chấp nơi Niết Bàn.

Này Phạm Thiên! Đức Như Lai giáo hóa các đệ tử Thanh Văn, thì họ cũng không thấy thế gian, cũng không thấy Niết Bàn.

Này Phạm Thiên! Nói Niết Bàn chỉ là trên ngôn từ, thật ra không có người hành pháp thế gian, cũng không có người hành pháp Niết Bàn.

Phạm Thiên hỏi: Các ngôn từ được nói ra là tranh luận, như những ngôn từ này nói về những pháp gì?

Đáp: Này Phạm Thiên! Đó là hý luận và không nói đến chúng sinh.

Này Phạm Thiên! Nếu có hý luận, vậy là thường không ngã mạn. Do ý nghĩa ấy, nên ỡ trong chỗ không có vật mà hý luận. Do nhận biết không thật có hý luận nên không thấy hý luận.

Nếu không thấy hý luận thì biết là người ấy không hành theo pháp thế gian. Nếu không hành theo pháp thế gian tức là không dị kiến. Vì không dị kiến nên nói là Niết Bàn.

Phạm Thiên hỏi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Gọi là nhập Niết Bàn thì do những đối trị gì mà gọi là Niết Bàn?

Đáp: Nhập Niết Bàn là nhân duyên này và nhân duyên khác không cùng hòa hợp, không vọng khởi vô minh, không hành pháp thế gian. Không khởi hành tức là không sinh.

Nếu không sinh tức gọi là Niết  Bàn. Nếu không dấy khởi các hành tức gọi là tịch tĩnh. Do vậy gọi là chứng đắc Thánh Đạo. Do thường không sinh như thế gọi là thuyết giảng về Bốn Thánh Đế.

Bấy giờ, Phạm Thiên Bình Đẳng Hạnh Bà La Môn Đại Bà La Tử thưa với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Như những lời Bồ Tát giảng nói đều là chân thật chăng?

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này thiện nam! Tất cả ngôn từ thuyết giảng đều chân thật.

Phạm Thiên hỏi: Vậy lời nói hư vọng cũng là chân thật sao?

Đáp: Đúng vậy, vì sao?

Này thiện nam! Các ngôn từ thuyết giảng đều hư vọng, không có xứ sở, không có phương hướng. Nếu pháp hư vọng không có xứ sở, không có phương hướng, tức là chân thật. Vì ý nghĩa ấy nên tất cả ngôn thuyết đều là chân thật.

Này thiện nam! Lời nói của Đề Bà Đạt Đa và lời nói của Như Lai không có khác nhau.

Vì sao?

Vì ngôn từ của các cõi, tất cả đều là lời nói của Như Lai. Nếu không phải như vậy thì ngôn từ của các cõi với những sự việc nói ra, tất cả đều không có đối tượng để giảng nói. Nếu có gì để giảng nói thì tất cả lời nói đều là giống nhau. Văn tự cũng đồng nên văn tự cũng rỗng lặng.

Hỏi: Như Lai có thể không nói ngôn ngữ phàm phu, ngôn ngữ Hiền Thánh sao?

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Đúng vậy!

Này thiện nam! Như Lai không thể dùng văn tự, lời nói của Bậc Thánh Nhân để thuyết pháp.

Vậy phàm phu cũng dùng văn tự, chương cú để giảng nói sao?

Đáp: Đúng vậy! 

Hỏi: Đây là văn tự, ngôn ngữ của hàng phàm phu, đây là văn tự ngôn ngữ của Thánh Nhân.

Vậy văn tự ngôn ngữ có phân biệt chăng?

Không.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này thiện nam! Văn tự, ngôn ngữ như thế gọi là chữ, chương, câu, không có phân biệt, không có chỗ phân biệt. Do vậy, tất cả Thánh Nhân đều xa lìa phân biệt, cho nên Thánh Nhân không có tên gọi.

Những việc làm của Bậc Thánh Nhân ở ngoài tướng của ngôn từ, cũng ngoài tướng của pháp, ngoài tướng của chúng sinh. Giống như loa trông do các duyên hòa hợp mà có âm thanh, nên các âm thanh này không có phân biệt.

Này thiện nam! Do vậy mà các Bậc Thánh Nhân khéo biết tất cả các nhân duyên, đối với các ngôn ngữ đều là bình đẳng không có phân biệt.

Bồ Tát Bình Đẳng Hạnh nói: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Như điều Phật dạy là đại chúng vân tập lại nên làm hai việc: Một là thuyết pháp đúng như thật, hai là im lặng như Bậc Thánh.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đáp: Này thiện nam! Nếu thuyết pháp mà không trái với Phật, Pháp, Tăng thì gọi là thuyết pháp như thật. Nếu biết pháp tức là Phật, xa lìa tướng tức là pháp, vô vi tức là Tăng. Đó gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu nương vào bốn niệm xứ mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật. Nếu đối với tất cả các pháp không có chỗ nhớ nghĩ thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Nếu nương vào bốn chánh cần mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật. Đối với bình đẳng mà không tạo bình đẳng, cũng không phải là không tạo bình đẳng thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Nếu nương vào bốn như ý túc mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật. Nếu không xả bỏ thân, khẩu, ý thì gọi là im lặng như Bậc Thánh. Nếu nương vào năm căn, năm lực mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật.

Nếu không tùy theo lời nói của người khác mà có sự tin tưởng không chấp thủ, không xả bỏ nên phân biệt rõ về các pháp nhất tâm an trú, không nhớ nghĩ trong từng niệm, nên tin các pháp tự tánh là thanh tịnh, xa lìa Tất cả hý luận, các hành của nhân duyên thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Nếu nương vào bảy bồ đề phần mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật. Thường hành tâm xả không có phân biệt, không tăng không giảm thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Nếu nương vào tám Thánh Đạo mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật. Nếu nhận biết tướng của các pháp giống như chiếc bè, không nương vào pháp hành, không nương vào chẳng phải là pháp hành, thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Này thiện nam! Ở trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, có thể dùng ngôn ngữ để tạo lập trình bày, phân biệt, thuyết giảng thì gọi là thuyết pháp như thật.

Do thuyết giảng đúng như thật nên được gọi là thuyết pháp như thật. Nếu thân chứng đắc pháp mà không xa lìa tự thân để thấy pháp, cũng không xa lìa pháp để thấy thân, quan sát như vậy mà không thấy hai tướng, không thấy không hai tướng.

Cho nên hiện tiền thấy mà không thấy, thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu không vọng tưởng chấp vào ta, cũng không vọng tưởng chấp vào người, không vọng tưởng chấp vào pháp, phi pháp, không phải phi pháp mà giảng nói thì gọi là thuyết pháp như thật.

Nếu chứng được cái gọi là không thể nói pháp, có thể xa lìa tất cả danh tự, ngôn ngữ, âm thanh, đạt tới chỗ bất động, xa lìa tâm hành thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu đối với tất cả chúng sinh mà biết các căn, các lực, theo như vậy mà thuyết pháp thì gọi là thuyết pháp như thật. Nếu thường ở trong tâm định không tán loạn, thì gọi là im lặng như Bậc Thánh.

Bấy giờ, Phạm Thiên Bình Đẳng Hạnh Bà La Môn Đại Bà La Tử bạch Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Như ý nghĩa thuyết pháp của Bồ Tát, theo tôi hiểu thì các Thanh Văn, Bích Chi Phật… tất cả đều không có thuyết pháp như thật, không có im lặng như Bậc Thánh.

Vì sao?

Vì không thể nhận biết rõ căn tánh lanh lợi và chậm chạp của tất cả chúng sinh, lại cũng không thường ở trong định.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thế gian nếu có dùng ngôn ngữ chân thật để thưa hỏi nêu bày.

Vậy thì ai là thế gian thuyết pháp như thật?

Ai là thế gian im lặng như Bậc Thánh?

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Phải nên nói là của Chư Phật, vì lời nói chân chánh là của Chư Phật.

Vì sao?

Vì Chư Phật Như Lai đầy đủ các căn, các lực, khéo nhận biết căn tánh lanh lợi, chậm chạp của mọi chúng sinh thường an trụ trong định.

Đức Phật dạy: Này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Đúng vậy, đúng vậy, như điều Phạm Thiên Bình Đẳng Hạnh nói, Như Lai chỉ có hai pháp này.

Bấy giờ, Trưởng Lão Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con đã từng nghe từng thọ trì lời Phật dạy rằng: Các ông vân tập lại nên làm hai việc:

1. thuyết pháp như thật.

2. Im lặng như Bậc Thánh.

Bạch Thế Tôn! Nếu là hàng Thanh Văn thì không thể thực hành.

Tại sao Như Lai bảo các vị Tỳ Kheo hành thuyết pháp như thật?

Hành Thánh mặc nhiên?

Đức Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao?

Nếu hàng Thanh Văn không nghe từ người khác thì có thể thuyết pháp như thật, như Thánh mặc nhiên không?

Trưởng Lão Tu Bồ Đề đáp: Dạ không.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Nên biết tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật thảy đều không có thuyết pháp như thật, không có Thánh mặc nhiên.

Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Trưởng Lão Tu Bồ Đề: Thưa Trưởng Lão Tu Bồ Đề! Đức Như Lai biết rõ tám vạn bốn ngàn nẻo tâm hành của chúng sinh.

Vậy Trưởng Lão có biết không?

Ở trong đây Trưởng Lão là người có trí tuệ, tùy chỗ ứng hợp mà thuyết giảng pháp chăng?

Đáp: Không thể.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Trưởng Lão Tu Bồ Đề! Nay có thể nhập vào tam muội quan sát tâm của tất cả chúng sinh, có thể thông đạt tâm cùng tâm sở hành của hết thảy chúng sinh, tâm mình tâm người không hề bị chướng ngại chăng?

Đáp: Không thể.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Đức Như Lai hiểu rõ tám vạn bốn ngàn nẻo tâm hành của chúng sinh, tùy theo chỗ ứng hợp mà thuyết pháp dược, lại thường ở trong định với tướng bình đẳng, tâm không lay động, nên thường thông đạt tâm và tâm sở hành của tất cả chúng sinh. Không suy nghĩ, không có chướng ngại.

Trưởng Lão Tu Bồ Đề nay có thể như vậy được không?

Đáp: Không thể.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Như Lai biết rõ tám vạn bốn ngàn nẻo tâm hành của chúng sinh mà thuyết pháp dược đúng như thật, thường ở trong định với tướng bình đẳng, tâm không lay động, cũng thường thông đạt tâm và tâm sở hành của tất cả chúng sinh, không suy nghĩ, không có chướng ngại.

Này Trưởng Lão Tu Bồ Đề! Vì thế nên biết, tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không phải thuộc về cảnh giới ấy.

Thưa Trưởng Lão Tu Bồ Đề!

Hoặc có chúng sinh nhiều dâm dục, do quán tịnh nên được giải thoát, không dùng quán bất tịnh, chỉ Phật mới có thể nhận biết.

Hoặc có chúng sinh nhiều sân hận, do quán tội lỗi mà được giải thoát, không dùng quán tâm từ, chỉ Phật mới có thể nhận biết.

Hoặc có chúng sinh nhiều ngu si, do không cộng ngữ mà được giải thoát, không dùng việc thuyết pháp, chỉ Phật mới có nhận biết. Hoặc có chúng sinh đủ cả tham, sân, si.

Không dùng quán tịnh, không dùng quán bất tịnh, không quán tội lỗi, không dùng tâm từ, không dùng bất cộng ngữ, không dùng thuyết pháp mà được giải thoát.

Tùy theo căn tánh mà dùng các pháp bình đẳng để thuyết pháp làm cho họ được giải thoát, chỉ Phật mới có thể nhận biết.

Vì thế, thưa Trưởng Lão Tu Bồ Đề! Phật là thuyết pháp như thật đệ nhất, như Thánh mặc nhiên đệ nhất.

Bấy giờ, Trưởng Lão Tu Bồ Đề nói với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Nếu các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể thuyết pháp như thật như vậy, không thể Thánh mặc nhiên như vậy thì các Đại Bồ Tát có thể thành tựu công đức thuyết pháp như thật, như Thánh mặc nhiên chăng?

Đáp: Chỉ Phật mới có thể nhận biết.

Phật bảo Trưởng Lão Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề! Có pháp tam muội tên là vào tất cả ngôn ngữ, tâm không tán loạn. Các vị Bồ Tát nếu có thể thành tựu được tam muội này, thì tất cả đều đạt được công đức như vậy.

Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Bình Đẳng Hạnh: Này thiện nam! Vì các chúng sinh có tám vạn bốn ngàn nẻo tâm hành, nên phải nói tám vạn bốn ngàn pháp tạng. Đó gọi là thuyết pháp như thật. Thường ở trong định diệt thọ, tưởng, hành nên gọi là Thánh mặc nhiên.

Này thiện nam! Nếu tôi trọn một kiếp hoặc hơn một kiếp mà giảng nói về hai nghĩa lý của tướng thuyết pháp như thật và Thánh mặc nhiên thì cũng không thể hết, mà với biện tài thuyết pháp cũng không thể nào hết được.

Khi ấy, Phật bảo Bồ Tát Bình Đẳng Hạnh: Này thiện nam! Trong thời quá khứ cách đây vô lượng, vô biên A tăng kỳ kiếp, có Đức Phật ra đời, tên là Phổ Quang gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Kiếp ấy tên là Danh xưng, Quốc Độ tên Hỷ kiến. Trong Quốc Độ ấy được trang nghiêm bằng bảy thứ báu quý, hàng Trời, người giàu có, an vui, đông đúc không có các thứ sợ hãi.

Này thiện nam! Quốc Độ Hỷ kiến của Phật Phổ Quang Như Lai có bốn trăm ức cõi bốn thiên hạ, mỗi mỗi cõi bốn thiên hạ rộng đến tám vạn bốn ngàn do tuần, nơi đó có các thành ấp rộng lớn bằng phẳng một do tuần đều dùng các thứ ngọc quý trang trí. Trong mỗi thành ấp đều có hai vạn năm ngàn thôn xóm bao quanh.

Nơi mỗi thôn xóm lại có vô lượng trăm ngàn vạn dân chúng với đời sông giàu có, an lạc, mọi người thấy được màu sắc và hình tượng của Quốc Độ ấy, ai cũng vui mừng và được tam muội niệm Phật.

Nên Quốc Độ ấy có tên là hỷ kiến. Nếu các vị Bồ Tát của mười phương Thế Giới khác đến Quốc Độ này cũng đều được an vui, ở các Quốc Độ khác không thể sánh bằng nên có tên gọi là hỷ kiến.

Này thiện nam! Phật Phổ Quang dùng giáo pháp ba thừa để giảng dạy cho đệ tử, cũng luôn giảng nói rộng giáo pháp như vậy, hoặc thuyết pháp như thật, hoặc Thánh mặc nhiên.

Này thiện nam! Bấy giờ, Quốc Độ của Phật Dược Vương nơi phương Trên có hai vị Bồ Tát tên là Vô Tận Ý và Ích Ý đi đến Quốc Độ Hỷ Kiến của Đức Phật Phổ Quang, cúi đầu đảnh lễ, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi cung kính chắp tay đứng qua một bên.

Khi ấy, Phật Phổ Quang phân biệt giảng nói rộng về tam muội tịnh minh cho hai vị Bồ Tát như sau: Này thiện nam! Vì sao gọi là tam muội Tịnh minh?

Này thiện nam! Nếu Bồ Tát nhập vào tam muội này tức thì có thể xa lìa các pháp phiền não ở trong pháp của Chư Phật, đạt được ánh sáng thanh tịnh nên gọi là tam muội tịnh minh.

Lại nữa, ở quá khứ tất cả pháp đều thanh tịnh, vị lai tất cả pháp đều thanh tịnh, hiện tại tất cả pháp đều thanh tịnh, ba đời các pháp đều thanh tịnh rốt ráo. Cho nên nói tất cả các pháp tự tánh thanh tịnh, thường thanh tịnh.

Vì sao tự tánh của các pháp thanh tịnh?

Vì tự tánh của tất cả các pháp là không, là xa lìa tất cả các pháp có chỗ chứng đắc. Vì tự tánh của tất cả các pháp là vô tướng, là xa lìa sự phân biệt của tất cả các pháp.

Vì tự tánh của tất cả các pháp là vô nguyện, là do tất cả pháp không nắm giữ, không xả bỏ, không cầu mong, không có tham muốn, vì các pháp tự tánh là rốt ráo xa lìa nên gọi các pháp tánh thường thanh tịnh.

Tánh thế gian như thế nào thì tánh Niết Bàn cũng vậy đều cùng pháp tánh ấy. Tánh Niết Bàn như thế nào thì tất cả các pháp cũng đồng tánh như thế ấy. Cho nên nói tất cả các pháp tự tâm tánh thanh tịnh.

Này thiện nam! Ví như hư không nếu thọ nhận sự cấu nhiễm là điều không thể có. Tâm tánh cũng như vậy, nếu bị cấu nhiễm là điều không thể có.

Này thiện nam! Ví như hư không tuy bị khói, bụi, mây, sương che phủ, cho nên không được trong sáng, nhưng tánh của nó không bị ô nhiễm.

Này thiện nam! Nếu tánh của hư không mà bị ô nhiễm thì rốt cuộc không gọi là thanh tịnh. Do không hề bị nhiễm nên mới gọi là hư không.

Này thiện nam! Tuy các chúng sinh có các hành không chánh niệm mà khởi lên các phiền não, nhưng tự tánh của tâm là thường thanh tịnh, không có cấu nhiễm.

Nếu người cấu nhiễm tâm thường uế bẩn không được thanh tịnh. Do không cấu nhiễm nên tự tánh thanh tịnh, tâm được giải thoát.

Này thiện nam! Đó gọi là nhập vào tam muội Tịnh minh. Phật Phổ Quang giảng nói cho hai vị Bồ Tát nghe rõ về pháp môn này. Hai vị Bồ Tát lãnh hội tam muội ấy liền ở trong các pháp chứng đắc pháp quang minh không thể nghĩ bàn.

***