Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phạm Thiên Thưa Hỏi

PHẬT THUYẾT

KINH PHẠM THIÊN THƯA HỎI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẦN MƯỜI HAI
 

Nếu hãi tức hữu vi chẳng hãi tức vô vi lìa cả hai biên ấy.

Gọi là hành bồ đề.

Người trên kẻ phàm phu

Cũng không vào pháp vị

Chưa chứng quả bậc Thánh

Là ruộng phước thế gian.

Quan sát pháp thế gian

Ở đấy như hoa sen

Tuân theo đạo tối thượng

Gọi là trú bồ đề.

Thế gian hành chốn nào

Bồ Tát hành ở đó

Tất cả các thế gian

Đều không có các pháp.

Tuệ sáng biết như thật

Trong đó được giải thoát

Tuệ sáng không sợ hãi

Rơi vào việc thế gian.

Tâm không sợ, không kém

Hành trì hạnh Bồ Tát

Bồ Tát người tuệ sáng

Khéo biết tướng pháp tánh.

Vì thế không phân biệt

Pháp hãy là phi pháp

Bồ Tát trí tuệ sáng

Không xả bỏ pháp nào.

Cũng không pháp dấy khởi

Nên gọi tướng bồ đề

Tất cả pháp vô tướng

Giống như tướng hư không.

Người tuệ sáng không nghĩa

Là tướng là đúng tướng

Bồ Tát thường hộ pháp

An trú nơi bình đẳng.

Bình đẳng tức là pháp

Do không phân biệt pháp

Đời có Phật không Phật

Tất cả các pháp không.

Các Bồ Tát tuệ sáng

Không bỏ pháp thể kia

Gặp được pháp Chư Phật

Có tướng của pháp thể.

Giảng nói cho chúng sinh

Do trú nơi chân như

Các ma không thể lường

Nơi các hành thâm diệu.

Tuệ sáng không chấp pháp

Biết khắp tất cả pháp

Cầu hiểu trí tuệ Phật

Mà không trụ vào đó.

Trú không có chỗ trú

Cũng chẳng trú nơi khác

Tuệ Chư Phật vô ngại

Không chấp pháp, phi pháp.

Nếu không chấp như vậy

Rốt ráo đạt bồ đề

Người thích các điều thiện

Bố thí chuyển cao quý.

Bỏ những gì mình có

Mà tâm không lay động

Các pháp không thể bỏ

Cũng không thể nắm giữ.

Hết thảy pháp thế gian

Ta vốn không thủ đắc

Biết các pháp như thật

Chẳng buộc chẳng giải thoát.

Lời Phật là thí chủ

Không chỗ thấy các pháp

Vì vậy các Bồ Tát

Không chấp ngã, ngã sở.

Vì vậy khi hành thí

Không sinh tâm tham tiếc

Những gì đã bố thí

Đều hồi hướng Phật Đạo.

Bố thí và bồ đề

Không trụ vào hai tướng

Chẳng tạo chẳng khởi giới

Thường trú trong giới pháp.

Cũng không dây khởi niệm

Ta đang giữ gìn giới

Tuệ sáng biết giới tướng

Không sinh không tạo tác.

Cho nên giới Bồ Tát

Thanh tịnh như hư không

Quán thân như hình ảo

Lời nói như tiếng vang.

Tâm tức như huyễn hóa

Không vì giới tự cao

Tâm thường luôn dịu dàng

An trú tánh tịch tĩnh.

Tất diệt hết thảy ác

Thông đạt các pháp thiện

Trì giới và phá giới

Không thủ đắc hãi tướng.

Do vậy thấy pháp tánh

Tức trì giới vô lậu

Đã đến bờ nhân nhục

Nhãn được các điều ác.

Đối với tất cả pháp

Tâm luôn luôn bình đẳng

Các pháp niệm niệm diệt

Tánh nó thường chẳng trú.

Trong đó không mạ nhục

Cũng không có cung kính

Nếu cắt xẻ trên thân

Giữ tâm không lay động.

Biết tâm không ở trong

Và cũng không ở ngoài

Thân oán và đao gậy

Đều từ tứ đại khởi.

Tuệ sáng tức thấy liền

Gọi là người nhẫn nhục

Nơi đất nước, gió, lửa

Chưa từng lầm thương tổn.

Thông, đạt được việc ấy

Thường hành pháp nhẫn nhục

Bồ Tát hành như vậy

Chúng sinh chẳng thể động.

Dũng mãnh chuyên tinh tấn

Trú vững nơi đại thừa

Người này nơi thân tâm

Dứt nơi chốn nương tựa.

Tuy biết gốc sinh tử

Cõi ấy không thể đạt

Nên vì một chúng sinh

Trang nghiêm thệ nguyện lớn.

Pháp vốn không sinh diệt

Nơi nào có tướng diệt

Bản tế không thử đắc

Điên đảo thấy có diệt.

Pháp tánh luôn thường trụ

Nên không thể nghĩ bàn

Nếu biết được như thế

Không sinh cũng không diệt.

Bồ Tát thương chúng sinh

Không rõ được pháp tướng

Làm cho họ tinh tấn

Khiến xa lìa điên đảo.

Chư Phật thường không thấy

Tướng quyết định chúng sinh

Nhưng không bỏ phát tâm

Gọi là người tinh tấn.

Suy nghĩ tất cả pháp

Đều biết như huyễn hóa

Trí tuệ không thể vững

Quán pháp như hư không.

Từ phân biệt hư vọng

Tham chấp sinh cấu nhiễm

Nên mở bày pháp môn

Khiến được vào Niết Bàn.

Tu tập rất tinh tấn

Mà không tổn hại pháp

Lìa pháp và phi pháp

Thường hành chân tinh tấn.

Đó là hành xa lìa

Do được định không tranh

Tịnh Động đều không trú

Mà thường sợ thế gian.

Ưa trú nơi thanh vắng

Như tê giác một sừng

Các thiền định tự tại

Thấu rõ các thần thông.

Tâm thường trú bình đẳng

Các thôn xóm vắng lặng

Bình đẳng không phân biệt

Thường gọi là tịch tĩnh.

Thường hiểu biết tịch tĩnh

Vô lậu không phân biệt

Tin pháp được giải thoát

Nên nói là tịch tĩnh.

Đến, đi đều bình đẳng

Thường trú nơi bình đẳng

Không diệt nơi bình đẳng

Nên nói trú bình đẳng.

Tự trụ pháp bình đẳng

Để dẫn dắt chúng sinh

Không trái hành bình đẳng

Nên nói thường trú định.

Chí niệm thường kiên cố

Không quên tâm bồ đề

Mà giáo hóa chúng sinh

Nên nói người luôn định.

Luôn nhớ nghĩ Chư Phật

Thân pháp tánh chân thật

Lìa xa tướng sắc thân

Nên nói người luôn định.

Thường tu hành các pháp

Như pháp thể các pháp

Mà không có nhớ nghĩ

Nên nói người luôn định.

Thường không lìa niệm

Tăng Biết Tăng là vô vi

Lìa nơi luôn tịch tĩnh

Tuệ sáng khéo suy nghĩ.

Quốc Độ Phật mười phương

Tất thấy các Đức Phật

Mắt đối với hình sắc

Mà không sinh hai tướng.

Pháp Chư Phật nói ra

Tất cả đều lãnh thọ

Tai đối với âm thanh

Cũng không sinh hai tướng.

Ở được trong nhất tâm

Biết tâm các chúng sinh

Tâm mình và tâm người

Cả hai không phân biệt.

Nhớ nghĩ đời quá khứ

Kiếp như cát Sông Hằng

Là trước hãy là sau

Cũng lại không phân biệt.

Hiện biến đến cùng khắp

Chỗ Phật không nghĩ bàn

Mà ở trong thân tâm

Không có tướng mỏi mệt.

Phân biệt biết các pháp

Nhạo thuyết biện vô tận

Ở vô lượng số kiếp

Khai thị tướng pháp tánh.

Trí tuệ đến bờ giác

Hiểu rõ ấm, giới, nhập

Thường chỉ cho chúng sinh

Không chấp, không hý luận.

Khéo biết pháp nhân duyên

Xa lìa tướng nhị biên

Biết nhân của phiền não

Cũng biết nhân tịch tĩnh.

Tin hiểu pháp nhân duyên

Tức không các tà kiến

Pháp đều thuộc nhân duyên

Không có căn bản định.

Tuệ sáng không ngã kiên

Phật kiên và không kiến

Thế gian Niết Bàn kiến

Đều không nên kiến chấp.

Dùng trí tuệ sáng tỏ

Biết tất cả pháp tánh

Không mờ tối, chướng ngại

Là người trí hành đạo.

Đó gọi là đại thừa

Phật thừa không nghĩ bàn

Đều dung nạp chúng sinh

Là bồ đề đại thừa.

Tất cả trong các thừa

Thừa này là bậc nhất

Như vậy nơi đại thừa

Phát sinh các thừa khác.

Thừa khác có giới hạn

Không dung nạp tất cả

Chỉ thừa này trên hết

Thâu nhận mọi chúng sinh.

Thực hành đại thừa này

Vô lượng như hư không

Đối với các chúng sinh

Không có tâm tham tiếc.

Người trí trụ ở đây

Đại Thừa dứt cấu nhiễm

Thừa ấy như hư không

Không sắc, không thể thấy.

Nếu có các chúng sinh

Hành trì đại thừa ấỵ

Nên quán tướng thừa này

Chốn dung nạp rộng lớn.

Vô lượng vô số kiếp

Nói công đức đại thừa

Cùng hành hóa thừa ấy

Công đức không cùng tận.

Nếu trú vào đại thừa

Người ấy lìa các nạn

Được gặp mọi an lành

Đấy là người trí tuệ.

Nghe Kinh vi diệu này

Cho đến bốn câu kệ

Không đọa vào đường ác

Được đến nơi an ổn.

Yêu mến Kinh Điển này

Là trời cũng là người

Sau khi bỏ thân mạng

Thường sinh làm trời người.

Ở đời ác sau này

Nêu được nghe Kinh ấy

Ta đều sẽ thọ ký

Rốt ráo thành Phật Đạo.

Nếu đời ác về sau

Tay cầm Kinh Điển diệu

Tức là trụ chân pháp

Có thể chuyển pháp luân.

Nếu người trì Kinh này

Chuyển được vô lượng kiếp

Qua lại trong sinh tử

Được gần gũi Phật Đạo.

Nếu trì tụng Kinh ấy

Trí tuệ tinh tấn lớn

Là người rất dũng mãnh

Hàng phục được các ma.

Nhiên Đăng thọ ký ta

Khiến được nhẫn vô sinh

Yêu thích Kinh Điển này

Ta thọ ký cũng thế.

Nếu Phật chẳng xuất thế

Thời không độ chúng sinh

Yêu thích Kinh Điển này

Làm việc của Phật làm.

Lúc Phật nói kệ trên, có hai ngàn Bồ Tát được pháp nhẫn vô sanh, mười ngàn Tỳ Kheo các lậu đã diệt tận, không thọ nhận các pháp, tâm được giải thoát, ba vạn hai ngàn người xa lìa mọi trần cấu, ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh, năm ngàn Thiên Tử đều phát tâm cầu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như điều con hiểu nơi ý nghĩa của Phật giảng nói: Nếu có người phát nguyện bồ đề thì đó là tà nguyện.

Vì sao?

Vì hết thảy các pháp nếu có sở đắc thì đều là tà. Nếu người chấp có bồ đề mà phát nguyện, thì những việc làm của người này đều là tà hạnh.

Vì sao?

Vì bồ đề không ở trong Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Do bồ đề không trụ vào đâu nên không thể phát nguyện.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người nguyện được hư không, thì người ấy được hư không chăng?

Phật dạy: Không.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát cũng như vậy, phát nguyện bồ đề là tướng hư không, nên biết đó là pháp nguyện hư không, là bồ đề vô nguyện, là vượt ra ba đời, chẳng phâi là tướng lãnh thọ.

Nếu Bồ Tát khởi lên hai tướng mà Phát Tâm bồ đề và suy nghĩ: Ngoài sinh tử kia mà có bồ đề, ngoài bồ đề có Niết Bàn, thì sự phát tâm như vậy không phải là hạnh bồ đề.

Bấy giờ, Phạm Thiên Thắng Tư Duy hỏi Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành hạnh bồ đề?

Đáp: Này Phạm Thiên! Nếu Bồ Tát hành tất cả pháp mà đối với các pháp không thấy mình có chỗ hành hóa là Bồ Tát tu hành hạnh Bồ  đề.

Vì sao?

Này Phạm Thiên! Vượt qua các nẻo hành, đó gọi là Bồ Tát hành hạnh bồ đề.

Phạm Thiên hỏi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát tu hành như thế nào gọi là vượt qua các nẻo hành hóa để thực hành hạnh bồ đề?

Đáp: Này Phạm Thiên! Xa lìa hết thảy các tướng duyên dựa, tướng của các duyên nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là Bồ Tát hành hóa vượt ra ngoài các cảnh giới.

Phạm Thiên hỏi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do ý nghĩa gì mà nói vượt ra ngoài các cảnh giới?

Đáp: Này Phạm Thiên! Không vượt qua bình đẳng.

Vì sao?

Vì các pháp bình đẳng tức là bồ đề.

Phạm Thiên hỏi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Bồ Tát phát khởi bồ đề nguyện?

Đáp: Này Phạm Thiên! Nên như bồ đề đã nói ấy.

Phạm Thiên hỏi: Thế nào là bồ đề?

Đáp: Này Phạm Thiên! Bồ Đề là không phải quá khứ, hiện tại, vị lai. Do vậy, Bồ Tát ở trong ba đời thanh tịnh, quan sát phát khởi về bồ đề nguyện.

Này Phạm Thiên! Các pháp ở trong ba đời xưa nay vốn không có sinh khởi, do vốn nó không sinh nên chẳng có gì để tu hành. Vì thế người phát nguyện không có chỗ để phát nguyện.

Vì sao?

Vì phát nguyện tu hành hạnh bồ đề như thế thì được trí nhất thiết chủng nhất thiết trí.

Phạm Thiên hỏi: Những ý nghĩa nào là trí nhất thiết trí?

Đáp: Tất cả thảy đều nhận biết. Do đấy gọi là trí nhất thiết trí.

Hỏi: Do những pháp nào là trí nhất thiết trí?

Đáp: Này Phạm Thiên! Đó là tướng không sai khác. Do ở những nơi chốn không có tướng chúng sinh, như các chúng sinh ấy thế nào thì phải nhận biết đúng như thế đó. Do đấy gọi là không có tướng sai khác.

Phạm Thiên hỏi: Thế nào gọi là không có chúng sinh?

Đáp: Này Phạm Thiên! Nói chúng sinh chỉ có danh tự. Lìa tánh của danh Tự Tức là không có chúng sinh. Lìa chúng sinh ấy tức không có danh tự. Do vậy, danh tự và chúng sinh không khác. Tánh của chúng sinh và danh tự cũng không khác, nên bồ đề mà khác với chúng sinh thì có hai tướng.

Do ý nghĩa này nên không ngoài chúng sinh mà có bồ đề vì không ngoài ấy nên bồ đề bình đẳng. bồ đề bình đẳng tức ngã bình đẳng. Bình đẳng như vậy mà đạt được bồ đề, thì pháp bình đẳng ấy không khác.

Theo ý nghĩa đó nên bồ đề và bình đẳng không khác. Ngã thường bình đẳng như là vô ngã, cho nên vô ngã chẳng khác với ngã. hư hư không kia chẳng có tướng khác, vì vậy mà tất cả các pháp bình đẳng không có tướng khác.

Bấy giờ, Phạm Thiên Thắng Tư Duy nói với Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Nên biết lời nói của Như Lai là chân thật dùng chỗ như thật để lãnh hội về pháp như vậy.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này Phạm Thiên! Phật đối với các pháp không có chỗ tu hành.

Vì sao?

Vì như Lai hãy còn chẳng chứng đắc các pháp huống gì là tu hành.

Phạm Thiên hỏi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Như Lai lẽ nào không biết các pháp là pháp hữu vi, pháp vô vi, là pháp thế gian, pháp xuất thế gian sao?

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này Phạm Thiên! Ý ông thế nào?

Như người có thể tu hành nơi hư không mà nhận biết hư không chăng?

Phạm Thiên đáp: Không.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi: Này Phạm Thiên! Gọi là hư không, thế thì hư không có sinh diệt chăng?

Phạm Thiên đáp: Không.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Này Phạm Thiên! Vì vậy, các pháp giống như hư không. Như hư không kia chẳng có sinh diệt thì tất cả các pháp cũng lại như vậy. Vì không lấy gì để nói nên nói là các pháp có sinh diệt.

Này Phạm Thiên! Thuyết Pháp như vậy thì không có đối tượng được thuyết giảng.

Tất cả các pháp có thể giảng nói chăng?

Do hết thảy các pháp ấy không sinh không diệt nên không thể thuyết giảng. Nếu pháp được thuyết không sinh, không diệt, không thể luận bàn thì sự thuyết pháp ấy cũng không có pháp để thuyết.

Vì sao?

Vì như pháp được thuyết giảng do những gì để nhận biết là đã nêu giảng các pháp ấy. Sự nhận biết kia cũng vậy. Do ý nghĩa đó nên nói các pháp là chân như, pháp trụ, nhưng không trú nơi chân như vì chân như là không trú.

Bấy giờ, Tứ Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Phạm Thiên Vương chủ Thế Giới Ta Bà vân tập ở trong chúng hội đều dùng hoa Trời tung lên Đức Phật và bạch: Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thuyết pháp như vậy đều tin hiểu thì biết người ấy có thể diệt trừ được các quân ma cùng các thứ oán địch.

Vì sao?

Vì nhờ Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử khéo giảng nói các pháp xa lìa tất cả tướng. Nếu có thiện nam nào nghe được pháp môn sâu xa này mà không kinh không sợ, có thể tin hiểu nên biết những người ấy quyết định không từ chỗ công đức nhỏ mà đến.

Nếu Kinh Điển này để ở đâu thì nơi đó là nơi Phật cư ngụ. Ai nghe được nơi chôn để pháp môn thâm diệu này, thì nên biết nơi ấy là chỗ Phật chuyển pháp luân.

Kinh Điển này được để ở nơi nào hoặc thôn xóm, thành ấp, núi rừng, đồng trông vắng, Tháp, Chùa, phòng Tăng ở, nơi kinh hành, thì các ma, ngoại đạo, người tham chấp không thể đi qua. Nhờ cúng dường rất nhiều các Đức Phật trong đời quá khứ mới có thể nghe được Kinh này.

Chúng con nhờ nơi Kinh Điển này mà chứng đắc được trí tuệ quang minh. Đối với công đức của như Lai, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Phạm Thiên Thắng Tư Duy chúng con chưa báo đáp được.

Cho dù chúng con thường ở nơi Pháp Sư nghe thuyết pháp mà tưởng là Đức Thế Tôn, rồi có thể đem máu thịt dâng lên cúng dường, cũng không báo đáp ân đức rộng lớn của Đức như Lai và các bậc kia.

Chúng con đối với vị Pháp Sư tưởng như Đức Thế Tôn nên luôn luôn theo hầu hạ. Nếu có người biên chép Kinh này thì Chư Thiên thường đến hộ vệ, còn khi đọc tụng, thuyết giảng thì có vô lượng Chư Thiên đến nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tứ Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Phạm Thiên Vương và đại chúng: Lành thay, lành thay!

Này các thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy, như lời các ông nói! Nếu như có bảy loại báu chứa đầy khắp tam thiên đại thiên Thế Giới được đem ra bố thí, thì công đức cũng không bằng người nghe pháp môn này.

Nếu người khắp trong tam thiên đại thiên Thế Giới dùng bảy loại báu chứa đầy hằng hà sa mười phương Thế Giới đem ra bố thí, thì công đức cũng không bằng nghe pháp môn này.

Này các thiện nam! Nếu muốn được các công đức thì nên nghe Kinh này. Nếu muốn thân hinh tốt đẹp, giàu có, quyến thuộc, tự tại, đầy đủ sự an vui nơi hàng Trời, người, tiếng khen, biết rộng, trí nhớ lâu dài, chánh hạnh oai nghi, giới, định, tuệ, thông hiểu các Kinh Sách, tri thức thiện, đạt nhạo thuyết biện tài, ba minh, sáu thông, tất cả pháp thiện.

Ban cho các chúng sinh hết thảy tài vật muốn đạt đến Niết Bàn, thì nên lắng nghe, tôn kính, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng Kinh này, rồi theo đó tu hành diễn nói rộng khắp cho mọi người.

***