Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phạm Võng Sáu Mươi Hai Tà Kiến

PHẬT THUYẾT KINH

PHẠM VÕNG SÁU MƯƠI HAI TÀ KIẾN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Chi Khiêm, Đời Ngô
 

PHẦN MỘT
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật du hóa tại nước Câu Lưu, cùng đông đủ Chúng Đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị. Bấy giờ có người ngoại đạo tên là Tu Tỳ và đệ tử là Ma Nạp Phạm Đạt, đi theo sau Phật và Chúng Tỳ Kheo Tăng.

Người ngoại đạo Tu Tỳ thì hủy báng Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng đủ thứ. Còn đệ tử là Ma Nạp Phạm Đạt thì lại tán thán Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng hết lời.  Hai thầy trò ông này cùng nhau tranh cãi, mỗi người nói một cách trái ngược nhau suốt thời gian đi theo sau Phật và Chúng Tỳ Kheo Tăng trên đường các Ngài cùng đến thọ thỉnh.

Lúc này, Đức Phật từ nước Câu Lưu đến nước Xá Vệ, dừng chân ở vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà.

Khi đó, các Tỳ Kheo hội họp tại giảng đường Ca Lê La, cùng nhau ngồi lại bàn luận: Việc này như thế nào?

Người ngoại đạo tên là Tu Tỳ và đệ tử là Ma Nạp Phạm Đạt đi theo sau Phật và Chúng Tỳ Kheo Tăng, trong khi các Ngài đi thọ thỉnh.

Người ngoại đạo Tu Tỳ thì hủy báng Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng đủ thứ. Còn đệ tử là Ma Nạp Phạm Đạt thì lại tán thán Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng hết lời.

Đức Phật từ xa nghe rõ các Tỳ Kheo đang luận bàn về việc này, Ngài liền đứng dậy đi đến giảng đường, ngồi xuống và hỏi các Tỳ Kheo: Vừa rồi các ông nhóm họp tại giảng đường Ca Lê La để bàn luận những việc gì?

Các Tỳ Kheo bạch Phật: Vừa rồi chúng con cùng nhau nhóm họp để bàn luận việc: Người ngoại đạo tên là Tu Tỳ và đệ tử là Ma Nạp Phạm Đạt đi theo sau Phật và Chúng Tỳ Kheo Tăng, trong khi các Ngài đi thọ thỉnh. Người ngoại đạo Tu Tỳ thì hủy báng Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng đủ thứ. 

Còn đệ tử là Ma Nạp Phạm Đạt thì lại tán thán Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng hết lời.

Đức Phật dạy: Lành thay, này các Tỳ Kheo! Khi hội họp thường phải làm hai việc.

Những gì là hai?

Một là thuyết pháp.

Hai là tư duy.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Nếu có người hủy báng Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng, các ông chớ có sân hận, sanh tâm ý ác, buồn rầu thì mới tốt. Nếu có người hủy báng Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng, các ông sanh lòng sân hận, sầu muộn thì các ông sẽ bị suy thoái.

Này các Tỳ Kheo, nếu có người tán thán Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng, các ông chẳng nên vui mừng, cũng không sầu lo, cũng chẳng có ý hân hoan nếu chẳng như vậy, các ông sẽ bị suy thoái.

Nếu lại có người hủy báng Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng, các ông nên nghĩ: Điều người kia nói không phải là lời nói thành thật. Đức Phật không có những việc như vậy.

Này các Tỳ Kheo! Nếu có người tán thán Phật, Pháp và Tỳ Kheo Tăng, các ông nên nghĩ rằng: Thật có việc này.

Vì sao như vậy?

Vì kẻ biết ít chỉ biết theo lời răn dạy không thể nghe nhiều, nên mới chê trách Phật.

Các Tỳ Kheo hỏi Đức Phật: Sao gọi là kẻ biết ít, chỉ biết theo lời răn dạy không đa văn mới chê trách Đức Phật?

Đức Phật dạy: Người đó nói rằng: Đức Phật không sát sanh, không kết oán, không cầm dao gậy, dạy người làm thiện, thương yêu tất cả mọi người cho đến loài côn trùng nhỏ bé.

Cũng không lấy tài vật của kẻ khác, chỉ muốn bố thí, tâm niệm bố thí, thấy người bị kẻ khác cướp đoạt thì thương xót. Thân tự làm thanh tịnh, không kết tội kẻ khác, tu phạm hạnh thanh tịnh, thích hạnh thanh tịnh, không thích pháp ái dục xấu ác.

Cũng không nói dối, lời nói chí thành, thích sự thành thật không hư dối, người thế gian đều tin lời nói của vị ấy, không có ý khác, cũng không vọng niệm, không nói hai lưỡi, rao truyền để hai bên đánh nhau, nếu có tranh tụng thì hòa giải, khiến hai bên được an ổn.

Không chửi mắng, cũng không nói lời ác, nói ra điều gì cũng khiến cho mọi người hoan hỷ, chỉ nói điều thiện, không nói lời lừa dối, nói lời rất thành thật đúng lúc, hành chánh pháp có nghĩa lý, nói lời dịu dàng. Không ngồi giường cao chạm trổ đẹp đẽ, cũng không trang sức hương hoa, không nghe ca hát múa xướng, không uống rượu.

Cũng không đeo vàng bạc châu báu, thường đúng pháp khất thực, không ăn sai giờ, không nhận nô tỳ trai gái, không hủy diệt mầm lúa, cũng không nuôi gà, dê, heo, không có nhà cửa. Cũng không mua bán ở chợ búa, không dùng cân, đấu thước, tấc để lừa đảo, xâm đoạt của người.

Đối với việc dùng dao gậy, đánh đập khủng bố người đều xa lìa. Thí như người ngoại đạo tham đắm việc ăn uống, lấy đó để so sánh với Đức Phật, họ cất chứa nhiều lúa thóc để ăn, uống rượu, nuôi súc vật, y phục, thuốc men. Sa Môn Cù Đàm đều không có những việc ấy.

Thí như ngoại đạo, thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn thường làm những nghiệp si mê, mặc sức ra vào, bài báng ganh tị, chỉ muốn tự mình được cung kính. Còn Đức Phật thường xa lìa nghiệp si mê này.

Thí như ngoại đạo, đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn ở trong làng xóm, tích chứa nhà cửa, lúa thóc, cây cối, hoa quả, vườn rau cải, tự giữ lấy để ăn dùng. Đức Phật thì xa lìa những việc ấy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn ngồi nằm giường cao rộng trải tơ, lấy vàng bạc tốt đẹp khảm lên trên, rồi lấy nệm làm bằng các loại lông voi, ngựa, súc sanh, các loài chim bay trải lên tòa ngồi. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc này.

Thí như có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn cùng nhau hỏi rằng:

Vua là thế nào?

Giặc là thế nào?

Binh đội là thế nào?

Đánh nhau là thế nào?

Đại thần là thế nào?

Quận, nước, huyện, ấp là thế nào?

Nữ nhân là thế nào?

Dâm dật là thế nào?

Nói toàn chuyện thế gian, nói cả về việc biển khơi …

Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc ấy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn hành động hư dối, giả làm như thật, ứng hiện trong ngoài không ăn khớp nhau, tỏ vẻ xuất sắc để cầu tài lợi, thường tham đắm chuyện ăn uống. Còn Đức Phật thì đều xa lìa kiến chấp si mê này.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn cùng nhau tranh cãi cho rằng: Ta biết pháp luật, ngươi chẳng biết pháp luật ngươi là tà kiến há có thể biết pháp sao?

Ta là chánh kiến còn ngươi thì ngôn ngữ trước sau điên đảo, ta là chánh kiến, ngươi là tà kiến, ngươi bị thua, ta được thắng, ngươi là xấu, ngươi là biên kiến, đến độ không còn thọ nhận lời nói của ta, ngươi nên học hành, có gì để bảo chứng?

Đức Phật thì xa lìa quả báo của hàng súc sanh ấy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn thường chơi cờ xu bồ, bài bạc, còn nói: Ta được ném thả vào túi, leo lên trụ, chơi cờ Vua, đấu nghé, ném chén. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc này. Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn khi tắm rửa, thì dùng tạp hương xoa vào mình, tự làm đẹp, lấy gương tự soi, cầm dù lọng cao, mang giày da, búi tóc, dùng châu ngọc. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc như thế.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn thường làm việc ác, lấy tay đánh chân, dùng đầu mặt xúc chạm nhau, đấu voi, ngựa, trâu, dê, đấu người nam, người nữ và trẻ em, đấu gà, heo, vịt. Còn Đức Phật thì đều xa lìa những tà kiến ác kiến này.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống, biết phân biệt về dao, mâu, cung tên, phân biệt tướng nam, tướng nữ, người lớn, trẻ nhỏ, biết phân biệt tướng voi, ngựa, trâu, dê. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc ấy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống, làm thầy thuốc cho đàn ông, đàn bà, con nít, làm thầy thuốc cho voi, ngựa, trâu, dê. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc như vậy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống. Làm các việc về quỷ thần, tạo ra các thứ áo quần, làm thầy thuốc chữa mắt, làm thuốc cho phụ nữ mới sanh, làm chú cho người bị nhiễu loạn.

Khi người nữ lui tới thì cầm cây cỏ hóa thành đồ ăn ngon cho họ ăn, bèn dối trá bảo là đi tìm vật tốt để hóa ra y phục cho người mặc vào có thể bay được. Còn Đức Phật thì đều xa lìa những việc ấy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống cho người uống thuốc để nôn mửa. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc như thế.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn dùng nghiệp súc sanh để tự mưu sống, bảo người đi tới chỗ này chỗ nọ, dùng chú thuật khiến cho gây lộn, kiện cáo, cùng đánh đập người, vật ngã xuống đất, dùng chú khiến phụ nữ bị hư thai, dùng cây lau chú thuật khiến bám vào tay người. Còn Đức Phật thì đều xa lìa những việc này.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn dùng nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống, cầm củi đốt lửa, chú vào hơi độc của vỏ cây á phiện, hạt bồ đào để tạo ra khói, chú vào con chuột để cắn giết người, học chú thuật để biết người lúc nào sống lúc nào chết. Còn Đức Phật thì đều xa lìa các việc như thế.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống:

Một người nói: Sẽ có mưa lớn.

Một người nói: Sẽ có mưa nhỏ.

Một người nói: Lúa thóc sẽ chín.

Một người nói: Lúa thóc sẽ không chín.

Một người nói: Lúa thóc sẽ tốt.

Một người nói: Lúa thóc sẽ không tốt.

Một người nói: Sẽ có bệnh dịch lớn.

Một người nói: Không có.

Một người nói: Sẽ có giặc đến phá hoại nước này.

Một người nói: Sẽ có chết chóc lớn.

Một người nói: Sẽ có Vua băng hà.

Một người nói: Sẽ có lập Vua mới.

Một người nói: Sẽ có động đất lớn.

Một người nói: Không có động đất.

Một người nói: Sẽ có Nguyệt Thực.

Một người nói: Không có Nguyệt Thực.

Một người nói: Sẽ có Nhật Thực.

Một người nói: Không có Nhật Thực.

Một người nói: mặt trời từ Đông qua Tây.

Một người nói: Từ Tây qua Đông.

Một người nói: mặt trăng tinh tú từ Đông qua Tây.

Một người nói: Từ Tây qua Đông, do đó mà có việc tốt xấu.

Một người nói: Do đó cho nên mặt trời, mặt trăng từ đông qua tây.

Một người nói: Do đó cho nên mặt trời, mặt trăng, tinh tú xuất hiện.

Một người nói: Do đó cho nên mặt trời, mặt trăng, tinh tú lặn.

Một người nói: Mây sẽ che mặt trời.

Một người nói: mặt trời sẽ ra khỏi mây.

Một người nói: mặt trời sẽ trong, không có mây.

Còn Đức Phật thì đều xa lìa những việc ấy.

Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống.

Một người nói: Vua nước này sẽ qua tàn phá nước kia, Vua nước kia sẽ lại tàn phá nước này.

Một người nói: Xe, ngựa, sáu thứ súc vật của nước này ít, giải mộng cho người, dùng chú thuật khiến người không nói được, khiến cho người cấm khẩu. Vì người mà viết sách nói lên giá trị của họ, vì người mà lấy áo quần để so sánh phẩm giá của họ, phân biệt màu sắc tốt xấu để đánh giá họ. Còn Đức Phật thì đều xa lìa những việc như vậy.

Đức Phật dạy: Sa Môn ngày ăn một bữa, chiều không ăn, ăn đúng giờ, xa lìa việc ăn phi thời, đối với y bát, thực hành hạnh biết vừa đủ, ăn uống vừa no thì thôi, có đi đâu cũng đều mang theo y bát bên mình, thí như con chim bay đi đâu cũng có hai cánh bên thân.

Tỳ Kheo cũng như vậy, đối với áo quần, việc ăn uống, bình bát đều vừa đủ thì thôi, dù đi đến đâu cũng mang theo y bát bên mình.

Tỳ Kheo cũng như vậy, thọ trì, phụng hành lời răn dạy của hiền giả, tự quán thân mình, không có tranh cãi, luôn suy nghĩ về đạo, làm việc hợp với sự thật, thấy sắc không khởi tưởng, cũng không xem người cùng đánh nhau, giữ sự tịch tĩnh liên tục, không có si mê loạn động.

Các pháp ác bất thiện, không vừa lòng, không nên để chúng làm loạn tâm mình, phải giữ gìn con mắt. Đó gọi là Tỳ Kheo phụng hành giới phẩm của Bậc Hiền giả.

Hiền giả như vậy, các căn tịch tĩnh, đối với bên trong không nghĩ về sự tranh giành gây loạn, ăn uống chỉ nhằm vừa đủ, không ăn nhiều cũng không ăn ít, thấy thích ứng là được, thường ăn một bữa, không thêm không bớt, nhằm nuôi mạng sống chứ không phải để cho mập béo, chỉ để cho thân được an ổn, không thọ khổ, có khí lực để tu tập hành hóa.

Nếu có Tỳ Kheo ở thời đương lai, nên tôn thờ và hành trì giới của Bậc Hiền thiện này, đối với Bậc Hiền thiện nên ăn uống đủ no, phải suy tư về đạo, đầu đêm, cuối đêm phải hành đạo, thực hành đạo niệm vi diệu, không lay động, ban ngày hoặc ngồi.

Hoặc đi kinh hành, không nghĩ đến pháp ác, đầu đêm hoặc đi kinh hành, hoặc ngồi, nửa đêm nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, ý tưởng luôn thức tỉnh, thường nhớ nghĩ về ánh sáng, cuối đêm lại ngồi suy tư về đạo. Lúc kinh hành thì không nghĩ đến pháp ác.

Nếu đi vào quận, huyện, làng ấp để khất thực, thì sáng sớm ngủ dậy, đắp y mang bát đi vào những nơi chốn ấy để khất thực phải luôn gìn giữ các căn, thường nghĩ đến việc khất thực cho xong, dùng cơm xong, rửa tay, rửa chân, cất bát, liền vào chỗ vắng vẻ một mình, ban đêm ngồi thiền, hoặc ở bên gốc cây vắng vẻ.

Hoặc chỗ đất trống, hoặc giữa núi, trong hang động, hoặc trong nhà cỏ, hay bên ao đầm, ngồi ngay thẳng, không ngó bên này, không liếc bên kia, lìa bỏ sự si mê của thế gian, ý nhớ nghĩ về sự hành hóa, không có ý ác, lấy tâm từ bi thương xót tất cả mọi người kể cả các loại côn trùng nhỏ bé, ý cũng không nghĩ ác.

Trừ bỏ ái dục, xa lìa sự ham ngủ nghỉ, thường nghĩ đến việc mau đạt được tâm ý hành định, mà không nghĩ đến việc ngủ nghỉ, từ bỏ các tưởng còn do dự, không nói điều ác, cũng không nghĩ tưởng về điều ác.

Giữ lòng tịch định, xa lìa sự nghi ngờ bên ngoài, xả bỏ các tưởng về việc hành chẳng hành các pháp ác, ý cũng chẳng nhớ nghĩ về các tưởng ấy, trừ bỏ năm thứ ngăn che và những ý tưởng về phiền não.

Thí như có người mang tiền đi buôn, mong được như ý, khi trở về quê, lợi tức thường được dư dã, sinh sống đầy đủ, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.

Thí như có người từ lâu đã làm tôi tớ cho người ta, nay được thoát khỏi thân nô tỳ, ra vào tự tại, tự nghĩ: Ta vốn làm nô tỳ, nay được giải thoát để làm dân, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng. Thí như có người bị nhốt trong lao ngục, được ân xá mà ra khỏi ngục, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.

Thí như có người bị bệnh nặng, năm này qua năm nọ không lành, bỗng gặp được lương y chữa cho lành bệnh, có khí lực, đi đứng ra vào, ăn uống tự nhiên.

Người đó suy nghĩ: Lúc xưa bị bệnh quanh năm, nay được lành bệnh, lại có khí lực ăn uống, ra vào, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng. Thí như có người đem tài vật quý báu đi qua đường hiểm, tài vật được giữ gìn hoàn toàn an ổn, đến được con đường tốt, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.

Tỳ Kheo cũng như vậy, xa lìa năm thứ ngăn che tâm ý. Thí như người mắc nợ đã trả được nợ. Người bị cầm tù nay được thả ra. Người bệnh lâu ngày được lành. Người làm tôi tớ nay được về làm dân, như người qua đường hiểm nay được an lành, trong lòng hoan hỷ.

Đức Phật bảo: Kẻ thiếu trí hoặc không đa văn mới hủy báng Phật.

Đức Phật dạy: Pháp mà ta hiểu thì thâm diệu, điều mà ta biết thì rốt ráo. Hiền giả đệ tử nghe như vậy liền khen ngợi Đức Như Lai.

Đức Phật nói: Sao gọi đó là pháp thâm diệu mà ta hiểu rõ, hiền giả đệ tử nghe pháp ấy liền tán thán Đức Như Lai?

Đức Phật dạy: Nếu có ngoại đạo, ở trong kiếp quá khứ, thấy sự việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, mỗi mỗi đều học hỏi các sự việc biết các sự việc ấy, đều ở trong mười tám thứ kiến giải này.

Nếu có ngoại đạo, ở trong kiếp vị lai, thấy việc vị lai, học hỏi nơi sự việc vị lai trong vô số học thuyết, mỗi mỗi rõ biết từng việc, thảy đều ở trong bốn mươi bốn thứ kiến giải.

Nói về mười tám thứ kiến giải thuộc về kiếp quá khứ: Có ngoại đạo, hành theo thường kiến luôn tự cho thế gian là hữu thường, ở trong bốn kiến giải.

Đức Phật dạy: Người ngoại đạo kia vì sao trong bốn kiến giải đều thấy là thường, tự thuyết giảng cho người thế gian về hữu thường?

Nếu có ngoại đạo, đoạn trừ ái dục, hành thiền định, liền ở trong tam muội chánh thọ Như Kỳ Tượng, có thể nhớ sự việc trong hai mươi kiếp ở quá khứ.

Người đó nói: Ngã và thế gian là hữu thường, vì sao như vậy?

Ta biết lúc thành lúc bại ở kiếp quá khứ, nhưng không biết lúc thành lúc bại ở kiếp vị lai.

Người đó liền nghĩ: Biết việc quá khứ, bỏ việc vị lai. Đó là kiến giải thứ nhất.

Thứ hai, nếu có ngoại đạo, đoạn trừ ái dục, ở trong tam muội chánh thọ Như Kỳ Tượng, có thể nhớ được sự việc trong bốn mươi kiếp ở vị lai.

Người đó nói: Ngã và thế giới là hữu thường.

Vì sao vậy?

Vì ta không biết sự việc thành bại ở kiếp quá khứ, chỉ biết lúc thành bại ở kiếp vị lai. Người đó bèn bỏ việc quá khứ không biết đến, chỉ nghĩ đến việc vị lai. Đó là kiến giải thứ hai.

Thứ ba là nếu có ngoại đạo, đoạn trừ ái dục, tinh tấn hành thiền, nhờ định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ sự việc trong tám mươi kiếp ở quá khứ và vị lai.

Người đó bèn nói: Ngã và thế giới là hữu thường.

Vì sao vậy?

Vì ta biết lúc thành lúc bại ở kiếp vị lai và quá khứ. Người đó bèn nhớ nghĩ đến trí tuệ của quá khứ và vị lai. Đó là kiến giải thứ ba.

Thứ tư là nếu có ngoại đạo, tinh tấn tịch tĩnh, nhất tâm đoạn trừ hạnh ác, liền được định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ đến căn tịch tĩnh, trụ nơi niệm si.

Người ấy tự cho: Thế gian là hữu thường.

Vì sao vậy?

Vì ta không biết lúc thành lúc bại ở kiếp quá khứ, cũng không biết lúc thành lúc bại ở kiếp vị lai. Đó là kiến giải thứ tư.

Chỗ có thể gọi ngoại đạo là nói thường, thấy thường, tự vì người thế gian thuyết giảng hữu thường, đều ở trong bốn kiến giải này không thể vượt lên trên.

Như Lai đều biết rõ, biết một cách vi diệu vượt hơn thế nữa, cho nên Ngài không chấp trước, nhờ không chấp trước nên được giải thoát, Đức Như Lai biết sự thọ nhận thống dương do xúc sanh ra đã diệt tận, biết nó từ đâu sanh khởi, Đức Phật thấy vậy nên không chấp nhận, ý hiểu rất rõ.

Đức Phật dạy: Pháp mà ta hiểu hết sức thâm diệu, vô cùng sâu xa sáng tỏ, nếu có hiền giả đệ tử nghe được pháp đó liền tán thán Phật. Có ngoại đạo trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ đến việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, đều thích nói là biết những việc trong quá khứ, tất cả đều ở trong mười tám kiến giải.

Ngoại đạo này sao gọi là ở trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ đến việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, đều thích nói là biết những việc trong đó?

Nếu có ngoại đạo đều nói thường, thấy thường họ đều vì người thế gian thuyết hữu thường đều ở trong bốn kiến giải.

Vị ngoại đạo ấy sao gọi là thuyết thường, thấy thường, vì người thế gian nói thường?

Khi kiếp hoại, thì chúng sinh nơi hạ giới được sanh lên Trời A Vệ Hóa La thứ mười hai. Lúc kiếp hoại thì vị thiên đó phước đức cạn mỏng, mạng chung liền sanh xuống hạ giới.

Có vị Phạm Thiên sanh trong cõi hư không, bèn đối với vị đó tự xưng là: Đại Tôn Phạm, tự cho ta làm ra tất cả mọi sự, ta là thượng tôn, là cha của tất cả, giải nghĩa cho ngàn người ta là bậc Tôn Thượng.

Vị Phạm Thiên ấy tự nghĩ: Làm thế nào để có được người sanh ở đây?

Vị ấy vừa nghĩ như vậy, những người ở hạ giới khác liền được sanh lên trên Trời.

Bấy giờ vị Phạm Thiên kia nhân điều mới thấy đó, nên nói: Ta hóa sanh ra các người này.

Các người đó cũng tự sanh kiến giải cho rằng: Vị Phạm Thiên đã hóa sanh ra chúng ta.

Vì sao vậy?

Vì Phạm Thiên sanh trước, chúng ta sanh sau, cho nên hóa sanh ra chúng ta là vị Phạm Thiên sanh trước. Ngài hết sức đoan chánh đẹp đẽ và thanh khiết, oai thần vòi vọi. Còn Chư Thiên khác thì tùy theo phước đức cạn mỏng mà mạng hết dần dần sanh xuống nhân gian.

Các vị ấy tu hành tinh tấn, xa lìa ái dục, hành nhất tâm liền được định ý tam muội như kỳ tượng, nên nhớ lại chỗ sanh khi xưa, người đó nói: Vị Phạm Thiên sanh ra ở trên Trời trước tiên đó thì được thường tại, không di chuyển, cũng không chết.

Vị Phạm Thiên trên Trời luôn tồn tại, hóa sanh ra chúng ta là những người phi thường vô thường, bị di chuyển và bị chết, đó là chủ thuyết thường và vô thường, gọi là kiến chấp thứ nhất.

Hai là nếu có ngoại đạo, vị đó đối với Phạm Thiên nêu bày kiến giải như thế này: Nếu có các pháp sắc, thống dương thọ, tư tưởng, hành, thức, pháp ấy là thường, cũng không di chuyển, không chết.

Còn các đại như địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng và không chủng, những thứ này là vô thường, không bền chắc.

Vị Phạm Thiên ấy, lộc tướng phước đức cạn mỏng, mạng chung lại sanh xuống nhân gian, vị đó tinh tấn, xa lìa ái dục, nhất tâm định ý theo pháp tam muội như kỳ tượng, nhớ lại Phạm Thiên lúc trước, bèn nói: Các pháp như sắc, thọ thống dương, tư tưởng tưởng, hành, thức kia là pháp thường còn bền chắc. 

Còn các đại như địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng và không chủng ở nhân gian này là pháp vô thường, không bền chắc, có diệt vong. Đó là kiến giải thứ hai.

Thứ ba nếu có ngoại đạo, chủ trương: Có vị Trời tên là Kỷ Đà Ba Đồ, ở trên Cõi Trời cùng nhau vui chơi, vì vui chơi nên sau đó thường không nhớ lại lúc thân thể bị bệnh nằm liệt giường, vị đó thân tướng, pháp lộc, phước đức cạn mỏng, mạng chung sanh xuống nhân gian.

Vị đó thực hành hạnh tinh tấn, xa lìa ái dục, nhất tâm nên được định ý tam muội như kỳ tượng, nhớ lại chỗ sanh đời trước, liền nói: Sự vui sướng an lạc của vị Trời kia luôn tồn tại, chẳng dời đổi, chẳng diệt vong. Còn sự vui sướng của nhân gian là vô thường không bền chắc, bị tử vong. Vị Thiên kia là hữu thường, còn người nhân gian này là vô thường. Đó là kiến giải thứ ba.

Thứ tư nếu có ngoại đạo chủ trương: Có vị Trời tên là Tán Đề, vị đó ở trên Trời cùng với vị Trời tên là Đốn Bình, hai bên nhìn nhau sanh ra sân hận nên phải xa lìa tòa ngồi của mình, vị Thiên Nhân ấy lộc tướng phước đức cạn mỏng.

Mạng chung sanh xuống nhân gian, tu hành tinh tấn, xa lìa ái dục, nhất tâm liền được định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ lại thuở xưa đã sanh ở Thiên Thượng, vị đó nói: Chư Thiên kia cùng nhau vui chơi thỏa thích là thường trụ, bền chắc không có tử vong.

Còn ta ở nhân gian thì chẳng thường, không bền chắc, bị tử vong. Vị Chư Thiên kia là thường còn, ta ở nhân gian là vô thường. Đó là kiến giải thứ tư.

***