Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Pháp Bí Yếu Trị Bệnh Thiền

PHẬT THUYẾT KINH

PHÁP BÍ YẾU TRỊ BỆNH THIỀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tự Cừ Kinh Thanh, Đời Lưu Tống
 

PHẦN BA
 

Tự xưng mình đầy đủ oai đức tốt đẹp, đến chỗ của người tu pháp A luyện nhã thì như kẻ chuyên huyễn thuật làm mê hoặc mắt người khác. Những người giả dối ấy dối trá cả hạnh Đầu Đà, bị gió xấu ác thổi hoa nghiệp tội rai trên thân mình, miệng ác phỉ báng, lấy hương tâm bất thiện dùng để huân tập thân tâm mình.

Thân tâm kẻ ấy cũng như cây Y Lan hoa đẹp mà rất độc hại chẳng khác trăm ngàn chó trùng, tuy hành thiền định, giả hiện quán hơi thở, cảnh giới thấy được như lúc ban đầu, thấy Phật màu đen, như chân voi đen, thấy như người bôi tạo, thấy các Tỳ Kheo đầu vỡ chân gãy, thấy Tỳ Kheo Ni trang sức hoa man, thấy các thiên tượng hóa làm vượn khỉ, lông tóc cháy đỏ đi đến quấy nhiễu. Hoặc thấy hồ ly, dã can có trăm ngàn đuôi, mỗi mỗi đuôi có vô số trùng đủ loại xấu ác.

Hoặc thấy lạc đà, lừa, heo, chó, quỷ Cưu Bàn Trà, quỷ ác Dạ Xoa, La Sát quái dị… thân gầy ốm xấu xí, mỗi loài đều cầm đủ loại vũ khí hung dữ đánh đập Tỳ Kheo, đều do vì cuồng loạn phát khởi. Hoặc ca hoặc múa, trên đất nằm phóng uế, làm đủ các việc xấu ác, phải nên mau chữa trị bệnh ấy.

Phương pháp chữa trị là: Hướng dẫn Hành Giả nói năng thành thật đúng đắn, sám hối những nghiệp ác, bất thiện đã gây tạo. Người trí phải nên dạy bảo các Tỳ Kheo ấy nhớ nghĩ đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lần lượt niệm nhớ đến bảy Đức Phật.

Niệm bảy vị Phật xong thì niệm đến ba mươi lăm Phật, sau đó lại niệm đến các vị Bồ Tát, nhớ nghĩ về tâm đại thừa, quán tưởng về pháp thường, tự thâm tâm biết hổ thẹn, quán tưởng mỗi một vị Phật lấy nước cam lồ rưới tren đảnh mình.

Lại quán tưởng thân mình đọa vào địa ngục A tỳ, đến mười tám địa ngục, nhận lấy các khổ não, ở trong địa ngục liền xưng niệm Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tỳ Kheo Tăng, tu hành sáu niệm. Trong mộng của người ấy thấy Chư Phật Như Lai phóng hào quang từ tướng lông trắng giữa chặng mày đến cứu khổ nơi địa ngục. Thấy sự việc như vậy rồi, Hành Giả như người mắc nợ, ôm lòng hổ thẹn, cần phải đền trả nợ ấy.

Vì thế một lòng một dạ, cởi bỏ Y Tăng Già Lê chỉ mặc An Đà Hội, đến chỗ Tăng thanh tịnh, năm vóc đảnh lễ sát đất, hiện bày tâm hổ thẹn, sám hối các tội, chấp lao phục dịch các việc của Tăng, trải qua tám trăm ngày, sau đó tắm rửa thân thể mặc Y Tăng Già Lê đi vào Tháp Phật, nhất tâm chắp tay quán tưởng Như Lai phóng hào quang lớn từ tướng lông trắng giữa chặng mày. Quán tưởng như vậy từ một ngày cho đến bảy ngày, trở về chỗ người trí, cầu xin sám hối.

Người trí nên bảo: Này Tỳ Kheo! Hôm nay ông tự quán tưởng thân mình cũng như chiếc bình vàng đầy bốn rắn độc, hai con ở trên hai con ở dưới luôn phun ra chất độc đáng sợ. Lại quán tưởng một con rồng có sáu đầu quấn quanh chiếc bình, rồng cũng phun ra chất độc như nước nơi miệng rắn. Cây lớn khắp bốn phương đều từ trong bình vàng sinh ra đầy cả ba cõi, có voi đen đi đến muốn nhổ những cây này và bốn phía lửa bốc cháy.

Quán thấy việc như vậy rồi người trí bảo: Tỳ Kheo phải nên biết, bình vàng là đồ chứa rắn độc. Rắn màu xanh là từ phong đại sinh ra, là chất độc của phong đại. Rắn màu lục là từ thủy đại sinh ra, là chất độc của thủy đại. Rắn màu trắng là từ địa đại sinh ra, là chất độc của địa đại. Rắn màu vàng là từ hỏa đại sinh ra, là chất độc của hỏa đại. Rồng sáu đầu là năm ấm nơi thân ông và hư không.

Thân này như thế là độc hại, bất tịnh, vì sao buông lung làm điều xấu ác, phạm giới cấm mà không điều trị?

Lại nên bảo người ấy lau quét tháp miếu, làm các việc khổ nhọc. Tiếp đến quán tưởng Đức Phật, thấy Phật phóng hào quang sắc vàng, dùng tay xoa đầu. Sau đó mới nên dạy quán Bất tịnh. Quán Bất tịnh thông suốt không có chướng ngại rồi, sau đó mới có thể thuyết giới giữa Tăng.

Khi muốn thuyết giới nên xướng lời này: Tôi Tỳ Kheo tên… Tỳ Kheo Ni tên… đã trải qua tám trăm ngày thực hành chấp lao phục dịch, bảy ngày quán tướng hào quang từ lông trắng giữa chặng mày của Phật, quán tưởng về rắn độc, về địa ngục đã xong, lại quán một vị Phật thuyết pháp sám hối. Môn quán bất tịnh, không có cảnh giới ta, người, lại thông tỏ về cảnh giới ấy.

Đức Phật dùng nước cam lồ rưới trên đảnh đầu Tỳ Kheo, Thiên Thần thị hiện trong mộng. Nay tôi đã thanh tịnh, đã biết hổ thẹn, tôi đã tự chứng biết, xin nguyện Tăng nghe cho. Khi ấy, Luật sư dùng luật để kiểm vấn người này, rồi dạy tụng giới, đủ tám trăm biến, sau đó mới cho phép làm Tỳ Kheo thanh tịnh như trước không khác.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nếu có người nào trong bảy chúng, phạm phải giới, qua hai đêm không chịu sám hối thì người ấy hiện tại thân tuy hành thiền định nhưng không được đạo quả. Nếu phạm giới trọng bị đọa đại địa ngục, ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh trải qua đủ ba kiếp số mới được làm người.

Tuy được thân người nhưng phải chịu sự bần cùng, tật bệnh, qua bảy mươi bảy thân cũng không thấy được Phật, không nghe được pháp, các căn không đủ. Vì vậy nên người trí, nếu phạm giới cấm của Phật đối với Đột Kiết La, phải sinh tâm lo sợ, như bị dao búa chặt đứt, ôm lòng hổ thẹn, huống nữa là phạm giới trọng.

Nếu người nào có thể uống được thuốc trì giới này, nên biết người ấy là bậc Trượng phu nhẫn nhục hổ thẹn rất lớn, không ai có thể sánh kịp.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Phá giới tâm bất tịnh

Giống như giặc trộm chó

Khắp nơi cầu lợi dưỡng

Vì tâm tham giết hại.

Nên uống thuốc hổ thẹn

Và mặc áo nhẫn nhục

Trang sức hoa sám hối

Xông ướp hương tâm thiện.

Nhất tâm quán tưởng Phật

Trừ diệt các khổ não

Cũng nên niệm pháp không

Tu tâm, quán bất tịnh.

Được các Đức Như Lai

Thuốc cam lồ rưới đảnh

Người uống tâm không lo

Sẽ đến bờ Niết Bàn.

Như pháp mà tu hành

Phi pháp thì nên bỏ

Đời này hoặc quá khứ

Người hành pháp được độ.

Tùy thuận lời Phật dạy

Trì giới, hành Đầu Đà

Thân tâm không tạo ác

Mau chóng được giải thoát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên thọ trì tốt phương thuốc điều trị phạm giới này, hãy cẩn thận đừng để quên mất.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng xong đều hoan hỷ phụng hành.

Pháp môn đối trị bệnh ưa thích âm nhạc.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu có người trong bốn bộ chúng, ưa thích các thứ âm nhạc khởi lên ca xướng không biết nhàm chán, do nhân ấy làm gió tâm lay động, như ngựa chạy rong, như chó nhảy múa, như hươu chúa Y Ni Lợi, mê hoặc ngu tối. Tâm như keo dán, chỗ nào cũng dính mắc, không thể kìm chế được, nên cần mau chóng điều trị.

Phương pháp đối trị bệnh này: Trước hết quán tưởng một Thiên Nữ, đoan trang xinh đẹp, hai tay tự nhiên có các nhạc khí, phát ra vạn loại âm thanh. Hành Giả quán tưởng thấy Thiên Nữ này, qua hình sắc bên ngoài và nghe âm thanh của nhạc trời hay đến trăm ức vạn lần, âm nhạc nơi thế gian không thể sánh được, nên có sự tham đắm.

Quán hình sắc nghe âm thanh, nên dạy quán người nữ ấy. Sáu căn tiếp xúc sáu trần, phát sinh cảnh giới. Nhờ năng lực quán hơi thở, thấy các âm nhạc theo từ nhãn căn sinh ra sáu rắn độc, nhập vào nhĩ căn. Lại thấy hai con trùng, hình như chim cú, phát ra âm thanh lớn ác, phá vỡ đầu, xuất ra não, các trùng tranh lấy mà ăn.

Trong bốn căn khác, thấy mèo, thấy chuột, thấy chó, dã can giành lấy mà ăn. Nhờ vậy, quán tưởng thấy được ba mươi sáu thứ bất tịnh của nữ sắc, đều xấu xí bất tịnh. Các trùng trong tử tạng làm chuỗi anh lạc của người nữ, thấy các thứ nhạc cụ của người nữ cầm giữ như đang di chuyển trong phân dơ.

Tiếng động mạnh của trùng như tiếng của dã can, tiếng nói của yêu quái, tiếng khóc của quỷ La Sát… không thể nghe được. Nếu khi nhàm chán những việc ấy rồi, đến chỗ bậc trí thành tâm sám hối những nghiệp ác bất thiện đã tạo từ trước. Bậc trí phải nên dạy bảo cho họ quán pháp vô thường.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên thọ trì tốt pháp môn chữa trị bệnh ưa thích âm nhạc này, hãy cẩn thận hành trì, đừng để quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng xong, đều hoan hỷ phụng hành.

Phép đối trị bệnh ưa thích ca xướng kệ tán.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất, nếu có Hành Giả ưa thích làm kệ tụng ngôn từ hoa mỹ để ca ngợi, cũng như gió động lá cây sa la vang ra âm thanh hòa nhã, tiếng như phạm âm, làm vui tai người khác, làm vừa lòng thích ý nhiều người.

Nhân nơi âm vang ấy khiến cho người kia cao ngạo, kiêu mạn, tâm như cỏ loạn theo gió phiền não lay chuyển không dừng, dựng cờ kiêu mạn, đánh trống tự đại, thổi lộng các mạch, do đấy phát cuồng loạn, như vượn khỉ ngu si hái bỏ hoa quả, tâm không tạm dừng, không thể quan sát hơi thở, phải nên mau chóng chữa trị bệnh này.

Phương pháp đối trị bệnh ấy: Trước hết nên quán tưởng đến một ngọn cờ cao bằng bảy báu có vị thần nhạc Càn Thát Bà ở trong ấy, thân như ngọc trắng, mỗi khi cử động thân là xướng kệ. Tên các lỗ chân lông nơi thân sinh ra hoa sen lớn, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo ngồi trên hoa sen, lắng nghe đủ thứ âm nhạc, trải qua gấp trăm ngàn vạn lần như vậy, dần dần dứt được tâm kiêu mạn của mình.

Người trí phải dạy cho Hành Giả quan sát kỹ ngọn cờ, từ nơi cờ ấy có gương sáng như pha lê, thấy các Tỳ Kheo nương theo âm thanh kiêu mạn, khiến tâm bất tịnh hóa thành quỷ La Sát, phát ra âm thanh thô ác, từ nơi miệng xuất ra lửa.

Lại thấy có quỷ Dạ Xoa đến từ bốn phương rút lưỡi lấy tim đặt lên ngọn cờ, tâm bị dao động, loạn động, la khóc kêu gào như tiếng rống của voi say.

Lại có âm thanh vi tế như tiếng ngâm của Tỳ Xá Xà, nhân đó lại thấy các âm thanh hoa mỹ, giống như tiếng kêu la của người, gọi cha mẹ mình mắng chửi vô đạo, từ đó sinh ra nhàm chán muốn lìa bỏ, tai không thích nghe, khởi tưởng phải xa lìa. Người trí nên dạy bảo pháp quán tám khổ.

Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên thọ trì tốt phép đối trị bệnh ưa Thích Ca xướng kệ tán này, hành trì cẩn thận, đừng để quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng xong đều hoan hỷ phụng hành.

Phép đối trị sự mạnh mẽ của thủy đại.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu có người nào trong bốn bộ chúng, nhập vào tam muội Thủy đại, toàn thân xuất ra nước, không thấy thân tâm, giống như biển cả. Khi xuất khỏi định, ăn uống không ngon, ngại tâm không nhiệt, mạch thủy tăng lên, lo lắng không thôi, phải mau chóng chữa trị.

Phương pháp chữa trị là: Quán tưởng một con chim cánh vàng, Tỳ Kheo cỡi trên chim ấy bay qua biển cả mà không sợ hãi. Các La Sát rồng thấy chim thảy đều kinh sợ bỏ chạy, chim này bắt lấy rồng ăn thịt, các rồng rất sợ, nên hút cạn nước biển hóa thành bốn con rắn.

Chim cánh vàng chúa, miệng ngậm bốn con rắn, Tỳ Kheo ngồi bên trên, tìm không được nước nên từ mắt của chim phun ra lửa thiêu đốt rắn, khiến các rắn đều sợ hãi. Giống như nhà huyễn thuật, tạo ra người huyễn ẩn mất không hiện, nhập vào thân Tỳ Kheo, từ đây ra khỏi định, Hành Giả nên uống thuốc đoạn trừ phần thấp kém của thế gian. Quán tưởng có hai viên hỏa châu, một ở dạ dày, điều hòa các mạch. Một ở hậu môn hình như đá nóng.

Quán tưởng vị thần núi Tuyết tên Uất Đa Già, thân dài sáu trượng, trắng như ngọc tuyết, cầm một loại thuốc hương tên là Sa Ha Na Già trao cho Hành Giả. Khi uống thuốc này, trước hết phát tâm Bồ Đề Vô Thượng, một khi uống xong thì bốn trăm bốn mươi bệnh nơi thân không còn nữa, huống gì là giảm bớt.

Nếu muốn vị Thần kia mau chóng xuất hiện thì nên tắm rửa sạch sẽ, không ăn năm thứ cay nồng, không uống rượu, không ăn thịt, ở chỗ vắng vẻ nhất tâm quán niệm hơi thở, xưng danh hiệu vị Thần ấy, niệm nghĩ hình tượng vị Thần ấy, từ một ngày cho đến bảy ngày, sẽ có đại Thần núi Tuyết cùng với mười hai vị Thần ánh sáng trắng đến trước chỗ Hành Giả, trước là thuyết pháp.

Sau đó trao cho thuốc, lại dạy cho mười hai môn thiền định. Các vị thần kia, đều là Bồ Tát ở địa thứ năm.

Nếu có người bệnh, trước phải niệm nghĩ vị Thần Uất Đa La Già, thứ đến niệm vị Thần Dũng Kiện, Thần Cường Lực, Thần Hùng Mãnh, Thần Trí Hành, Thần Tự Tại, Thần Thiện Tý, Thần Cưu Ma La, Thần Nan Thắng, Thần Bạch Quang Minh, Thần Bạch Quang Minh Vương, Thần Dược Vương… mười hai Thần Bạch Quang đều đã được gặp. Nơi mỗi mỗi vị Thần đều thưa hỏi các pháp môn khác nhau. Các vị Thần ấy, trước tiên khiến cho Hành Giả được gặp Bồ Tát Di Lặc.

Nơi trú xứ của Bồ Tát Di Lặc lại được gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi… tất cả các Bồ Tát và mười phương Chư Phật. Nếu người này, trong đời quá khứ không phạm bốn giới trọng, thì khi gặp các vị thần ấy liền chứng đắc quả Dự lưu. Nếu người phạm giới thì các vị thần ấy dạy bảo sám hối đủ số một ngàn ngày, sau đó gặp được Bồ Tát Di Lặc và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cùng các Bồ Tát Đại Sĩ, sau nữa đạt được quả Dự lưu.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nếu có Hành Giả nào do thủy đại giảm làm động đến bốn trăm bốn mươi bệnh, muốn được đối trị phải nên mau chóng uống thuốc Sa Ha Na Già sẽ trừ được bệnh hoạn, diệt bỏ biển nghiệp chướng, mau chứng đắc quả Dự lưu. Vì vậy các ông nên thọ trì tốt pháp môn này, hãy cẩn thận hành trì, chớ để quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất và Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng đều hoan hỷ phụng hành.

Phép chữa trị hỏa đại làm cho đau đầu đau mắt ù tai.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu Hành Giả nhập tam muội Hỏa đại, từng chi tiết đều có lửa cháy, đến đại tràng, tiểu tràng, cùng lúc phát sinh lửa thiêu đốt các huyết mạch. Khi xuất định, cả đầu đau nhức, huyết mạch co rút, mắt đỏ, tai điếc, nhân đó phát bệnh, phải nên mau chóng chữa trị.

Phương pháp đối trị là: Trước hết quán tưởng có một cái vò bằng lưu ly, chứa đầy nước đủ màu, sinh ra hoa báu đủ màu, trên hoa ấy có trăm ngàn hóa thân Phật và các hóa thân Bồ Tát. Mỗi vị đều phóng ánh sáng từ chòm lông trắng giữa chặng mày, soi chiếu ánh sáng của các ngọn lửa, làm cho lửa hóa rồng vàng.

Hành Giả thấy vậy sinh tâm vui mừng, khởi niệm quán tưởng cái vò, đặt bên dưới lửa, đài hoa ở bên trên, tự mình muốn đến chỗ Phật, lấy tay vịn vào cái vò, tay liền được mát mẻ, nhân đó cất thân bay đến bên cạnh cái vò, đảnh lễ Đức Phật.

Liền thấy hóa thân của Phật phóng hào quang từ giữa chặng màu mưa nước cam lồ, rưới khắp toàn thân, nơi nào cam lồ nho giọt xuống đều hóa thành lưu ly, thấm đến đại tràng, đại tràng tiểu tràng đầy đủ cam lồ, lửa dần dần dứt, hóa sinh hoa báu, có màu trắng hồng và phát ra ánh sáng.

Lại nên quán tưởng vị trời Ma Hê Thủ La cỡi bò vàng, cầm bình nước báu, đến trước chỗ Hành Giả, trong nước có thuốc tên là Phá độc, khiến Hành Giả uống.

Lại lấy viên ngọc tên Chiên đà la Ma ni để trên đảnh đầu Hành Giả, ngọc xuất ra thuốc rưới vào tai, vào mắt, vào mũi, chỉ một lần thấy thôi đã được trừ khỏi bệnh khổ. Vị Trời Ma Hê Thủ La là Đại Bồ Tát thường tự hành trì Tam Muội Thủ Lăng Nghiêm, liền từ giữa chân mày phóng ra ánh sáng lớn, hóa làm hình Tượng Phật, có năm trăm vị Tiên Nhân hầu cận Đức Thế Tôn.

Phật vì Hành Giả thuyết giảng pháp môn cam lồ để trị bệnh.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên thọ trì cho tốt pháp môn này, hãy hành trì cẩn thận, chớ để quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng xong đều hoan hỷ phụng hành.

Phép trị bệnh khi nhập tam muội địa mà thấy chuyện chẳng lành, bị thất tâm niệm mà sinh sợ hãi.

***