Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Pháp Bí Yếu Trị Bệnh Thiền

PHẬT THUYẾT KINH

PHÁP BÍ YẾU TRỊ BỆNH THIỀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tự Cừ Kinh Thanh, Đời Lưu Tống
 

PHẦN BỐN
 

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu Hành Giả nhập tam muội Địa đại, thấy bốn bề núi đen và giữa các núi có vô lượng, vô số quỷ Cưu Bàn Trà, ngồi chồm hổm trên đất, hiện tướng xấu ác, thân căn hiện rõ. Lại có năm ngọn núi, quỷ Dạ Xoa tranh nhau đến lấy núi kia.

Các quỷ Cưu Bàn Trà quá đỗi lo sợ, phát ra âm thanh ác lớn, hướng về chỗ Hành Giả. Lại thấy các quỷ đầu tóc rối bù, cầm gậy sắt lớn, đầu gậy có núi, đi đến chỗ của Hành Giả. Lại thấy có quỷ Dạ Xoa vác núi vừa đi vừa múa, La Sát nổi giận, cầm cây đến chỗ Dạ Xoa, cùng đánh nhau.

Quỷ Tỳ Xá Già, đầu đội núi đen, miệng ngậm cọp chết, Hành Giả thấy thế hết sức kinh sợ. Do kinh sợ nên La Sát càng hung dữ, đánh nhau với Dạ Xoa. La Sát thắng, chặt đầu Dạ Xoa, chặt tay chân Tỳ Xá Già, dùng làm chuỗi anh lạc, dùng thân căn của Cưu Bàn Trà để làm vòng hoa, nhảy múa trên mặt đất.

Răng chó mọc lên như nhánh cây kiếm. Mưa đá trong mắt, sét đánh bốc lửa. Quỷ Dạ Xoa lại thắng, bắt được La Sát, lóc lấy da mặt, khoét bỏ nữ căn, chặt thân căn của Cưu Bàn Trà, chặt lấy tay chân của Tỳ Xá Già dùng làm vòng hoa, xỏ tai xâu cổ, nhảy múa trên mặt đất, động thân la hét phát ra âm thanh rợn người rất đáng sợ hãi.

Lại thấy có bốn thần biển cả, mẹ của sự sinh trưởng, Tỳ Mâu Lâu Chí nằm ngửa trên mặt biển, mỗi vị có ngàn đầu và hai ngàn tay chân, thân xoay bốn hướng, bày cả nữ căn thật đáng ghê sợ. Như núi vấy máu, lông của chúng xấu ác giống như cây kiếm, trong mỗi sợi sinh ra một cây, chẳng khác nào rừng núi đao.

Lại thấy vô lượng, vô số chúng quỷ tai lừa, đầu bò, miệng sư tử, chân ngựa, đuôi sói, thân căn là Cưu Bàn Trà, vô số quỷ như vậy từ bên trong xuất hiện. Lại thấy rồng lớn có trăm ngàn đầu, thân dài mười do tuần từ bên trong xuất hiện.

Lại thấy có một quỷ giống như cầm thú, thân hình như sư tử, có một vạn chân và vô số trăm ngàn rắn độc từ trong ấy sinh ra. Lại thấy có ngạ quỷ thân hình dài lớn mười ức do tuần, khạc ra lửa độc, vác cả các núi từ trong ấy hiện ra.

Lại thấy ngàn con sói đuôi liền nhau mà thân khác, răng như đá dẹp, từ trong ấy hiện ra. Lại thấy có ngàn con cọp, đuôi cũng có đầu, hợp thân mà đi, từ trong ấy sinh ra. Lại thấy Long Nữ, dùng anh lạc trang điểm nơi thân làm đẹp mắt người, từ trong ấy sinh ra. Lại thấy tất cả các loài thú ác như hồ ly, mèo chuột, vượn, khỉ, dã can, quỷ ác đều từ trong ấy sinh ra.

Lại thấy có thần núi Ốc tiêu của địa ngục a tỳ, mười tam thần địa ngục, chín ức ngục tốt ngưu đầu, tám mươi ức ngạ quỷ, ngàn ức trùng xí, năm trăm ức giun, trùng đủ các loài hình trạng như thế.

Lại có thần ác quỷ, hoặc nắm núi dao, hoặc cầm rừng kiếm, hoặc lay núi Tu Di, hoặc chuyển núi Thiết Vi, núi Du Càn Đà… Hành Giả thấy thân của mình đầy khắp đại địa, ba trăm ba mươi sáu chi tiết đều như núi cao đến Cõi Vô Sắc. Từ nơi rốn chảy ra nước, có bốn con rắn độc bơi lội trong nước ấy, nơi miệng phun ra lửa.

Có mười La Sát đi lại trong lửa, từ trong tai sinh ra gió, từ hậu môn sinh ra gió, thổi động các núi, khiến cho tất cả quỷ thần nổi giận, vì thế nên Hành Giả rất kinh sợ, sinh bệnh cuồng loạn. Nếu thấy nhưng việc như vậy, nên mau chóng chữa trị.

Phương pháp chữa trị là: Trước hết quán tưởng một mặt trời cùng với Nhật Thiên Tử cưỡi cung điện bốn báu và trổi trăm ngàn thứ âm nhạc trên núi đen, soi chiếu núi đen làm cho núi dần dần sáng lên.

Quán tưởng một mặt trời xong lại quán tưởng hai mặt trời. Hai mặt trời xong, lại tự quán về xương trắng nơi thân, có ba trăm ba mươi sáu chi tiết trắng như núi tuyết, mặt trời chiếu nơi núi Tuyết tưởng như chiếu trên đảnh đầu. Có Nguyệt Thiên Tử với cung điện bốn báu và trăm ngàn quyến thuộc, cầm ngọc minh nguyệt đặt trên đầu của Hành Giả.

Quán tướng điều này rồi lại quán tưởng trên ngọn núi thứ ba cũng có sự việc diễn ra như trên không khác. Lại quán một mặt trời xong, đến quán bạch cốt như núi Tuyết ở trên. Lại có Nguyệt Thiên Tử.

Quán thấy Nguyệt Thiên Tử rồi, lại quán trên ngọn núi thứ tư cũng có một mặt trời soi chiếu núi đen. Đã thấy mặt trời rồi nên quán tưởng về bạch cốt nơi thân mình, ba trăm ba mươi sáu chi tiết trắng như núi tuyết, các xương trán đều cùng đối nhau, giữa mỗi một đốt xương trán có một Nguyệt quang, Nguyệt Thiên Tử tay cầm hai viên ngọc nắm giữ hai hướng.

Như vậy, giữa các chi tiết và mỗi đốt xương trán, phải nên dừng tâm trong khoảng mười sát na hơi thở ra vào để quán tưởng kỹ càng khiến thấy rõ hơn. Quán thấy mỗi một cốt xương có hai mươi tám ngôi sao, trong sáng, thanh tịnh thật đẹp, giống như ngọc bảy báu.

Quán tưởng như vậy xong, lại quán tưởng một con chim chúa cánh vàng, đầu đội ngọc Ma ni, bắt lấy bốn con rắn và sáu con rồng, rắn sợ, rồng bỏ trốn. Thấy các quỷ thần trên núi, một khi kinh động thì hình trạng màu đen, đều là do quả báo phá giới từ thân trước, nên cần phải sám hối, nghiêm trì tịnh giới, nếu được giới thanh tịnh thì ánh sáng mặt trời, mặt trăng càng hiển bày sáng tỏ.

Nếu kẻ tâm niệm xấu ác, miệng nói lời ác, phạm Đột kiết la thì trên ngọc Ma ni chỉ là đất đen, mặt trời, mặt trăng biến thành bụi bặm, các vì sao không xuất hiện. Các Vua A Tu La với chín trăm chín mươi chín tay và một ngàn đầu, mỗi khi xuất hiện thì che khuất mặt trời, mặt trăng, tinh tú không hiện ra.

Đây gọi là thoái lui, do vì đao tâm ác và lửa khẩu ác tạo nên sự cướp đoạt của giặc phá giới. Nếu muốn uống thuốc cam lồ tối thắng này, trước hết nên trì giới thanh tịnh, đầy đủ các oai nghi, sám hối nghiệp chướng và tội ác bất thiện. Thứ đến nên trói tâm buộc ý, ngay ngắn tọa thiền, quán niệm hơi thở như trước.

Quán tưởng về ba trăm ba mươi sáu chi tiết, khiến mỗi một chi tiết và các xương trán đều tương xứng nhau, quán thấy trăng sao như đã nói ở trước. Tâm trở nên sáng suốt, thấy giữa một chi tiết, ánh sáng mặt trăng như áo, ánh sáng cac sao như sợi tơ, đan xen lẫn nhau. Thấy bốn mặt trời xuất hiện làm nước trong bốn biển lớn ba phần cạn hết hai phần.

Năm mặt trời xuất hiện thì ánh sáng nơi núi Tu Di diệt tận, biển lớn cũng khô cạn. Thấy sáu mặt trời xuất hiện thì ánh sáng các ngọn núi dần dần diệt mất. Thấy bảy mặt trời xuất hiện thì đại địa sáng rực, các quỷ La Sát bay trên không trung, bay khắp Cõi Dục với cờ lửa theo sau.

Đến Cõi Sắc Giới, lửa cũng theo tới, muốn đến Cõi Vô Sắc thì tay chân co rút, rơi vào đống lửa, kêu la đáng sợ, động cả đại địa. Nên mau chóng giữ tâm, quán tưởng ba trăm ba mươi sáu chi tiết, như núi kim cương, hình tướng tốt đẹp đáng ưa thích hơn cả núi Tu Di. Đất, nước, gió, lửa không thể lay động, chỉ thấy bốn con rắn ngậm ngọc Ma ni đứng giữa núi xương.

Khi ấy nên quán tưởng về hình ảnh Đức Phật, thấy ngọn cờ kim cương có gương Ma ni và bảy Đức Phật quá khứ xuất hiện trong gương. Nên quán tưởng kỹ về tướng lông trắng giữa chặng mày của Đức Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Đề Xá, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Ca Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca Mâu Ni.

Thấy tướng lông trắng giữa chặng may của bảy Đức Phật như màu nước pha lê rất trong lành mát mẻ, tẩy rửa ba trăm ba mươi sáu chi tiết trên thân được trắng sạch, tinh khiết, vi diệu, như gương pha lê, không vật gì có thể sánh bằng. Nhân đó lại thấy năm bánh xe kim cương từ phương dưới vọt lên, xoay vòng trên không trung thuyết giảng nghĩa của Tứ Đế.

Tuy thấy nghe những điều ấy, nhưng phải một lòng quán thân như núi bạch cốt, liền thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng nước cam lo rưới trên đảnh của người ấy, sáu vị Phật kia cũng như vậy.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: Này Pháp Tử! Ông nên quán sát kỹ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vô thường, khổ, không, vô ngã.

Lại vì người khác mà thuyết giảng rộng về không, vô tướng, vô nguyện, thuyết về chỗ rỗng lặng của thân, bốn đại không chủ thể, năm ấm không nhà cửa, hoàn toàn tịch tĩnh, đồng như hư không, nhân đó liền ngộ về sự vô thường biến hoại của thế gian. Quán bốn chân đế trong năm sát na của hơi thở ra vào, phá trừ hai mười hai ức kết sử thiêu đốt, thành tựu quả vị Tu Đà Hoàn.

Trong khoảng mười sát na của hơi thở ra vào thoát khỏi các dòng ái dục, thành tựu quả Tư Đà Hàm. Trong mười sát na của hơi thở ra vào thì đoạn trừ các độn sử, các kết sử của dục, Sắc Giới và các kết sử căn bản, không còn trở lại Dục Giới, thành tựu quả vị A Na Hàm.

Trong mười sát na của hơi thở ra vào, qua lại trong pháp không, tâm không bị chướng ngại, an trú nơi ba mươi bốn tâm tương ưng, mười pháp giải thoát căn bản, không diệt không hoại, phá tan chín mươi tám núi kết sử, làm tướng đại dũng mãnh với ánh sáng trí tuệ, dựng ngọn cờ thắng pháp khắp bốn phương.

Có tòa báu kim cương từ phương dưới vọt lên cùng nhau diễn thuyết về pháp không. Năm bánh xe kim cương ở bên đầu gối trái, tự nhiên diễn thuyết về chín pháp vô ngại, tám pháp giải thoát, hàng Thanh Văn quá khứ đều nhập vào tam muội Tỳ Lưu Ly, đứng vững trước Hành Giả.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn thuyết rộng rãi nghĩa lý của cảnh giới thiền định. Ví như kim cương, nơi ấy vắng lặng, không thấy thân tâm. Vào tam muội Kim cương rồi từ tam muội xuất khiến cho núi kết sử sạt lở, gốc phiền não dứt sạch, sông vô minh khô cạn, nô tỳ lão tử diệt trừ, sự sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, như luyện vàng ròng, không thọ các dục, việc làm đã xong, gọi là đại A La Hán.

Nếu người phát tâm Bồ Đề Vô Thượng, ban đầu thấy được hào quang, từ tướng lông trắng giữa chặng mày của bảy Đức Phật, mỗi một hào quang chia làm mười nhánh hóa thành mười hoa báu có cây báu, đài báu, xếp hàng trên hư không. Khi ấy, Chư Phật trong mười phương cũng phóng ra nguồn nước sáng như đã nói ở trên, để tẩy rửa các chi tiết.

Trong mỗi một tướng hào quang ấy thuyết giảng mười tám pháp môn tâm từ, thuyết giảng mười tám pháp môn đại bi, thuyết giảng mười tám pháp môn đại hỷ, thuyết giảng mười tám pháp môn đại xả, dần dần tăng trưởng, giảng dạy tu tập bốn tâm vô lượng, khi đủ bốn tâm vô lượng rồi thì thuyết giảng về mười tâm sáng suốt.

Đã thuyết giảng xong về mười tâm sáng suốt, đến giảng thuyết về sắc tức là không, phi sắc diệt không. Đã quán không rồi, nên dạy sáu pháp của Bồ Tát, hành sáu phap xong nên tu tập sáu niệm, sáu pháp thân Phật. Niệm pháp thân Phật xong, phát khởi tâm hồi hướng.

Tâm hồi hướng thành tựu nên lập bốn hoằng thệ nguyện, không xả bỏ chúng sinh. Bốn nguyện thành tựu nên đầy đủ giới Bồ Tát. Giới Bồ Tát thành tựu nên tu tập Bố thí Ba la mật. Bố thí Ba la mật thành tựu nên tu tập mười pháp Ba la mật.

Quán tưởng như vậy rồi, đến quán không bên trong và không bên ngoài, thấy hiện tại đây có vô lượng trăm ngàn Chư Phật, dùng nước rưới trên đảnh đầu, dùng tơ buộc trên đầu thuyết giảng pháp không, nhân nơi pháp không mà tâm được tỏ ngộ, hội nhập quả vị Bồ Tát, gọi là tánh địa. Đó là cảnh giới ban đầu của Bồ Tát.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Đây gọi là pháp tam muội đối trị tăng thượng mạn, diệt gốc vô minh, tướng đáng sợ của ba độc khi vào tam muội Địa đại. Ông nên thọ trì cho tốt, hãy cẩn thận chớ để quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất và Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng xong, liền hoan hỷ phụng hành.

Phép đối trị phong đại.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu Hành Giả nhập tam muội Phong đại, tự thấy chín lỗ trên thân mình giống như những hang hốc lớn phát ra luồng gió năm màu. Lại thấy ba trăm ba mươi sáu chi tiết trên than mình trắng như núi Tuyết, mỗi một luồng gió xuất ra các quỷ Ái cát chi.

Các quỷ này tay cầm gậy sắt, lấy ngàn đầu lâu làm chuỗi đeo vào thân, cùng với chín mươi tám loài quỷ rồng đến chỗ Hành Giả. Hành Giả trông thấy, thân tâm kinh sợ, vì vậy phát sinh cuồng loạn hoặc bị bệnh rụng tóc, hãy nên mau chóng chữa trị.

Phương pháp chữa trị: Trước hết nên quán thấy bốn vị đại tiên trên núi Tuyết, núi Hương đều là những Đại Bồ Tát. Những vị tiên ấy thân màu vàng ròng, cao mười sáu trượng, một tay cầm hoa, một tay cầm vòng kim cương, miệng ngậm thuốc hương, bảo vệ cho Hành Giả không bị gió thổi.

Tiên Nhân cầm hoa trì chú nên xuất hiện con rồng hút hết cả gió khiến cho thân rồng phình lớn, nằm yên trên đất, không thể cất mình lên được. Lại nên quán tưởng rồng này giống như thân cây chuối, chỉ còn da bọc lấy thân, không thể thở được nữa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết Thần Chú:

Nam Mô Phật Đà.

Nam Mô Đạt Ma.

Nam Mô Tăng Già.

Nam Mô Ma Ha lê sư tỳ đồ la đồ, ái đốt đà đạt đà, sa mẫn đà bạt đồ la sí, đà la quật trà thệ trà, già lợi già lợi, Ma Ha già lợi hu ma lợi hu ma lặc sí, tấc đam tỷ diêm tỷ, a diêm tỷ lợi cứu cúc cúc sí, tát bà Đà la ni sí, a phiến đề ma câu lê ưng chỉ hu di hu di hu ma hu ma sa họa ha.

Khi thuyết Thần Chú này xong, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Thần Chú này được vô lượng Chư Phật trong quá khứ nói ra, hôm nay ta cũng thuyết Thần Chú ấy, đời vị lai về sau Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Phổ Hiền cũng sẽ thuyết Thần Chú này.

Công đức của Thần Chú ấy như Tự Tại Thiên, có thể khiến cho năm trăm năm sau, các Tỳ Kheo xấu ác được tịnh tâm ý, điều hòa được bệnh tăng giảm của bốn đại, cũng đối trị được bốn trăm bốn mươi bệnh trong tâm, sự sinh khởi cảnh giới của bốn trăm bốn mươi huyết mạch và chủng tử nơi tánh dục của chín mươi tám kết sử, cũng đối trị được những nghiệp chướng phạm giới, các điều ác hoàn toàn diệt tận.

Đây gọi là Thần Chú đối trị hoàn toàn bảy mươi hai bệnh phiền não, cũng gọi là Thần Chú dứt trừ năm thứ vô minh căn bản ngăn che, cũng gọi là hiện tại thấy tất cả Chư Phật và chúng Thanh Văn thuyết pháp chân thật, phá trừ các kết sử.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Pháp tánh không chỗ nương

Quán không cũng như vậy

Nếu hay quán bốn đại

Chẳng vì muốn bị hại.

Uống thuốc hành thiền định

Trì tụng Đà La Ni

Nhất tâm niệm Chư Phật

Kết sử hoàn toàn diệt.

Phiền não vĩnh viễn tận

Sông ân ái cũng dứt

Các dục không còn nhân

Tự gọi là giải thoát.

Không còn tâm lo sợ

Sáu thần thông tự tại

Cũng dùng Đà La Ni

Truyền dạy cho người khác.

Bấy giờ, nói kệ xong, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nay ông nên biết sau khi ta nhập Niết Bàn, vào đời vị lai, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nào được nghe pháp giới thanh tịnh và Đà La Ni Quang minh vương thắng tràng làm thuốc trị các bệnh thiền định bí yếu sâu xa này.

Nên biết người ấy không những ở nơi một Đức Phật hoặc hai Đức Phật, cho đến năm Đức Phật, gieo trồng các thiện căn mà còn từ lâu xa nơi vô lượng trăm ngàn Đức Phật, tu tập ba tâm bồ đề nên ngày nay được nghe pháp môn bí yếu sâu xa này. Như lời giảng dạy mà thực hành, nên biết người ấy, đến thân rốt sau cùng, như dòng nước chảy mạnh, mau chóng chứng đắc bốn quả Sa Môn và hạnh Bồ Tát.

Khi Đức Phật thuyết giảng lời này, có năm trăm Thích Tử, càng tăng thêm sự tinh tấn, đầy đủ sáu thần thông. Trong thành Xá Vệ, có một ngàn Thủ Đà La, đời trước hành thiền định phát cuồng loạn, nay được nghe Phật giảng thuyết, liền sinh hoan hỷ, chứng quả Tu Đà Hoàn.

Có tám mươi ức Chư Thiên, đối trị bệnh bốn đại, thân tâm không còn khổ nạn, ngay khi đó phát tâm cầu đạo quả vô thượng. Khắp nơi mưa hoa trời để dâng lên Đức Phật và đại chúng.

Bấy giờ, trong chúng hội, hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng được nghe Phật giảng thuyết đều đồng thanh thưa: Đức Như Lai xuất hiện ở đời, chính vì đối trị bệnh cuồng si tà kiến xấu ác đi theo La Sát, khiến được bản tâm, như tràng hoa đẹp, rất được ưa chuộng.

Lành thay! Đức Thế Tôn giống như hoa Ưu Đàm, đúng thời mới nở một lần.

***