Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Pháp Bí Yếu Trị Bệnh Thiền

PHẬT THUYẾT KINH

PHÁP BÍ YẾU TRỊ BỆNH THIỀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tự Cừ Kinh Thanh, Đời Lưu Tống
 

PHẦN HAI
 

Chi tiết thứ bảy: Đồng tử Huỳnh sắc, tay cầm dùi kim cương, đâm vào dưới hai chân, đâm vào hai bàn tay và đâm vào hai bên tim. Sau đó, lấy ngọc như ý, làm sạch sáu căn, các căn được khai mở nhận lấy niềm vui của thiền vị tối thượng, giữa các da mạch như xoa dầu thơm, tất cả đều mềm mại.

Chi tiết thứ tám: Đồng tử Kim cương sắc tay cầm hai bình, lấy thuốc màu kim cương rưới vào hai lỗ tai và tất cả lỗ chân lông như pháp án ma, điều hòa các chi, thân như vòng xích nối liền giữa các chi.

Chi tiết thứ chín: Đồng tử Ma ni châu sắc từ trong miệng bình xuất hiện, đi đến chỗ Hành Giả dùng năm ngón tay đặt vào nơi miệng Hành Giả, từ năm ngón tay rất thẳng ấy lưu xuất ra vị thuốc năm màu, Hành Giả uống thuốc rồi, quán thân và tâm cho đến các huyết mạch, trong suốt như gương sáng, màu sắc của pha lê, Ma ni không thể sánh bằng.

Vị đồng tử trao cành hoa sen cho Hành Giả ăn, khi ăn giống như pháp ăn ngó sen, trong mỗi mỗi từ ngó sen ấy xuất ra vị cam lồ. Ăn cành hoa này xong, chỉ còn chín hoa, trong mỗi cành hoa có một vị Phạm Vương đem giường Phạm Vương cho Hành Giả ngồi, Hành Giả ngồi trên giường này thì có lọng bằng bảy báu che lên trên, mỗi vị Phạm Vương thuyết giảng pháp môn từ bi cho Hành Giả.

Phạm Vương nhờ uy lực của mười phương Chư Phật an trú, ở trước Hành Giả để thuyết pháp từ, bi, hỷ, xả, tùy theo căn tánh mà cho thuốc, khiến cho bốn đại điều hòa.

Đức Phật bảo với Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông hãy thọ trì cho tốt pháp môn bốn đại điều hòa để hàng phục chín mươi tám kết sử cùng tất cả các bệnh trong và ngoài thân.

Vị Phạm vương vì bốn chúng mà thuyết giảng pháp rưới sữa trên đảnh đầu.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất và Tôn Giả A Nan… nghe Đức Phật thuyết giảng xong đều hoan hỷ phụng hành.

Phép trị bệnh nghẹt thở.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu có Tỳ Kheo tu tập A luyện nhã, dùng tâm thái quá và hơi thở gấp gáp, ngủ trên giường thấp, vì gió lạnh bên ngoài, làm động đến phế quản và phổi thận, các huyết mạch và gân cốt nổi lên, hơi khí bị dồn ứ, tiết chảy ra nước đọng lại trong ngực, cản trở huyết khí lưu thông nên sinh đủ các bệnh đau khổ, sưng vai, gân cốt co rút, phải mau chóng điều trị.

Trước hết phải dùng những thức ăn có chất béo, những thuốc hay của thế gian. Sau đó, ngửa mặt ngủ, hơi thở điều hòa, quán tưởng ao A Nậu Đạt, nước trong ao tràn đầy đến một do tuần, dưới đáy ao có bốn báu như kim sa, từ kim luân phát sinh hoa vàng lớn như bánh xe, trong hoa có bốn đầu của loài thú báu, vòi voi phun ra nước, miệng sư tử phun ra nước, miệng ngựa phun ra nước, miệng bò khạc ra cây, nhiễu quanh ao bảy vòng. Rồng chúa nơi ao A Nậu Đạt có cung điện bảy báu ở giữa bốn đầu thú ấy.

Trong ngọc như ý trên đảnh đầu của rồng chúa, nhờ năng lực của rồng ấy sinh ra một ngàn năm trăm hoa sen đủ màu. Nơi năm trăm hoa sen xanh có năm trăm vị A La Hán như Tôn Giả Tân Đầu Lô v. v… an tọa. Buổi chiều hoa khép lại, buổi sáng nở ra.

Bên trên chúng Tỳ Kheo có lọng quý bằng bảy báu, bên dưới hoa sen có giường bảy báu. Nơi năm trăm hoa sen vàng có năm trăm vị Sa Di như Thuần Đà Bà… an tọa. Buổi chiều hoa khép lại, buổi sáng nở ra.

Bên trên chúng Sa Di có lọng quý bằng bảy báu, bên dưới hoa sen có giường bảy báu. Nơi năm trăm hoa sen hồng có các vị đại A La Hán như Tôn Giả Ưu Ba Nan Đà, Tu Mật Đa… hoặc nói là năm trăm Đại Bồ Tát, quyến thuộc đều an tọa trên đó. Buổi chiều hoa khép lại, buổi sáng nở ra.

Bên trên chúng Tỳ Kheo có lọng quý bằng bảy báu, bên dưới hoa sen có giường bảy báu, có đài cao bảy báu dài tám ngàn trượng, từ phương dưới sinh ra, trước cung điện Long Vương A Nậu Đạt. Có năm trăm vị đồng tử, ở trên đài kia, toàn thân màu vàng. Vị đồng tử thứ nhất tên là Đồ Bà, vị đồng tử thứ hai tên là Thiện Tài… cho đến vị đồng tử thứ năm tên là Quán Đảnh Lực.

Nếu muốn điều trị bệnh nghẹt thở, trước hết phải nhớ nghĩ đến một ngàn năm trăm vị Tôn Giả như: Tân Đầu Lô… đã nêu trên, làm cho Hành Giả thấy được rõ ràng. Tôn Giả Tân Đầu Lô bảo đồng tử Đồ Bà Lấy thuốc Am Bà Đà màu trắng của Long Vương A Nậu Đạt uống.

Uống thuốc rồi, hết bệnh nghẹt thở, bốn đại điều hòa, mắt liền sáng tỏ. Nếu có người phát tâm đại thừa thì các vị đồng tử Đồ Bà, vị đồng tử Thiện Tài… cho đến vị đồng tử thứ năm trăm, đều vì người ay thuyết giảng pháp đại thừa, nhân đó gặp được mười sáu vị hiền sĩ như Bạt Đà Bà La… cũng gặp được một ngàn vị Bồ Tát trong hiền kiếp như Bồ Tát Di Lặc… nhân đó phát tâm cầu đạt Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, đầy đủ sáu pháp Ba la mật.

Nếu có người phát tâm Thanh Văn thì Tôn Giả Tân Đầu Lô vì người ấy thuyết giảng pháp bốn niệm xứ, cho đến tám phần Thánh đạo, trải qua chín mươi ngày sẽ đắc quả A La Hán.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên thọ trì tốt pháp môn điều trị bệnh nghẹt thở này, hành trì cẩn thận, đừng quên mất. Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất và Tôn Giả A Nan… nghe Đức Phật thuyết pháp xong đều hoan hỷ phụng hành.

Phép điều trị bệnh tham dục của hành giả.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu Hành Giả khi nhập thiền định, muốn nhận biết tham dục khởi lên làm động đến bốn trăm bốn mươi huyết mạch, từ mắt cho đến thân căn, một khi dao động, thì các căn bị bế tắc, làm động đến tâm, khiến tâm bị điên đảo, nhân đó sinh ra cuồng loạn khiến cho mê hoặc, ngày đêm tư duy tham dục. Đây là việc như lửa cháy đầu, phải mau chóng chữa trị.

Phương pháp điều trị này là hướng dẫn cho Hành Giả quán tử tạng. Tư tạng là phần ở bên dưới sinh tạng, ở bên trên thục tạng, có chín mươi chín lớp mô, như bào thai của heo. Có bốn trăm bốn mươi huyết mạch từ tử tạng sinh ra, cũng như rễ từ cây gốc phân tán ra các rễ cây khác, như đãy phân nhơ có một ngàn chín trăm chi tiết, giống như lá chuối có tám vạn loại trùng luôn vây chung quanh.

Bốn trăm bốn mươi huyết mạch cũng do từ tử tạng sinh ra, giống như ruột ngựa thẳng đến sản môn, hình như vòng xuyến đeo nơi tay tròn trịa, trên lớn thon, dưới nhỏ nhọn, hình như răng mọc đủ có chín mươi chín lớp, giữa mỗi lớp có bốn trăm bốn mươi loại trùng, mỗi mỗi trùng có mười hai đầu và mười hai mươi miệng.

Khi Hành Giả uống nước, nước thấm vào các huyết mạch rồi, phân tán đến các hộ trùng, nhập vào đỉnh đầu của trùng Tỳ La, thẳng xuống tới sản môn. Cứ mỗi nửa tháng thì các hộ trùng ấy xuất ra nước bất tịnh. Cũng như máu mủ chảy vào miệng của chín mươi trùng, rồi theo sáu lỗ của mười hai trùng xuất ra một thứ nước bất tịnh. Lại có những vi trùng nhỏ như lông tơ, vùng vẫy trong thứ nước bất tịnh ấy.

Này các Thiện Nam! Tội lỗi nơi đời trước cũng như vậy, theo vào nơi bốn trăm bốn mươi huyết mạch, từ nhãn căn phân tán đến toàn thân, thấm vào đường ruột, đến dưới sinh tạng, bên trên thục tạng tiếp các mạch của phổi, thận, mạch. Từ hai bên nội tạng đều có sáu mươi bốn trùng, mỗi mỗi trùng đều có mười hai đầu và mười hai miệng, chúng lẩn quẩn bên nhau theo hình vòng tròn, đầy cả mủ bầm, giống tinh trùng của heo rừng rất là dơ bẩn.

Từ nơi âm tạng chia làm ba phần, hai phần bên trên như bẹ chuoi, có một ngàn hai trăm huyết mạch, trong mỗi một mạch sinh ra trùng nhỏ như sợi tơ, như mỏ chim Tỳ Lan đa. Nơi miệng các trùng phát sinh ra bảy vạn tám ngàn trùng màu như những sợi gân, chúng lẩn quẩn bên nhau theo hình tròn như mắt loài chim cù sư la, có chín mươi tám mạch từ tâm lên đến đỉnh đầu.

Này các thiện nam! Khi mắt tiếp xúc với sắc thì tâm bị dao động, khiến cho bốn trăm bốn mươi huyết mạch cũng chuyển động không ngừng. Tám vạn ho trùng một khi há miệng thì mắt chúng xuất ra máu mủ thấm vào các mạch, cho đến đảnh đầu của chúng.

Các trùng chuyển động vô cùng rối loạn, trước khi tiếp xúc nữ căn. Tinh màu xanh trắng của nam là nước tiểu của các trùng, tinh màu đỏ cam của nữ là máu mủ của các trùng. Chín mươi tám thứ kết sử đã được huân tập từ tám vạn hộ trùng ấy, thân bốn đại địa, thủy, hỏa, phong này cũng vận hành theo như vậy.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nếu có người nào trong bốn chúng, mặc y phục hổ thẹn, uống thuốc hổ thẹn, mong cầu sự giải thoát và thoát khỏi mọi khổ của thế gian thì phải nên tu học pháp môn này. Người học pháp môn này như uống nước cam lồ. Trước hết quán tưởng tử tạng cho đến phần thân nơi nữ căn, nam căn đều có các trùng lớn nhỏ há miệng, vểnh tai trừng mắt nôn mủ.

Dùng tay lật trái, đặt trên đầu gối chân trái, ngay ngắn đi vào hơi thở như vào thiền định, qua một ngàn chín trăm chín mươi lần quán tưởng như vậy xong, thì trở lại đặt tay lên đầu gối bên phải, ngay ngắn, quán tưởng như trước. Tiếp tục lấy tay lật trái, che trên đầu, làm cho những thứ trùng bất tịnh này theo tới hai mắt, tai, mũi và miệng, không chỗ nào mà không đến.

Thấy được sự việc như vậy rồi, thì đối với nữ sắc, nam sắc đẹp đẽ hay Thiên Tử, Thiên Nữ, khi mắt thấy chúng cũng giống như nhìn thấy các trùng trong ghe nhọt của người bệnh ghẻ, như thấy hình dạng quỷ thần Tiễn bán Đa La nơi địa ngục, hay Mãnh hỏa nhiệt nơi địa ngục A tỳ. Hành Giả phải nên quán sát kỹ thân mình và thân người khác, tất cả chúng sinh trong Cõi Dục thì thân phần bất tịnh đều như vậy cả.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nay nên biết, chủng tử căn bản nơi căn thân của chúng sinh vốn đều không thanh tịnh, không thể dùng lời diễn tả hết, chỉ nên nhất tâm quán niệm hơi thở.

Nếu người nào uống được thuốc này thì người ấy là bậc Đại trượng phu, là vị thầy của hàng trời, người, là vị chủ điều ngự loài người, là vị đã thoát khỏi bùn dơ tham dục, không bị chìm ngập vào nước kết sử nơi sông lớn tham ái, không còn bị ma quỷ dâm dật huyễn hoặc quấy nhiễu làm hại.

Nên biết người ấy tuy chưa ra khỏi sinh tử nhưng thân mạng ấy đã tỏa hương thơm tinh khiết như hương hoa Ưu Ba La, là người mà các hàng Hương Tượng, Long Vương, Lực Sĩ Ma Hê Thủ La không thể sánh bằng, là bậc đại lực trượng phu được hàng trời, người cung kính.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Ông nên thọ trì tốt pháp môn này và thuyết giảng cho bốn chúng phải hành trì cẩn thận chớ có quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan… nghe Phật thuyết giảng xong, đều hoan hỷ phụng hành.

Phép đối trị bệnh tham cầu lợi dưỡng.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu có Hành Giả nào bị lửa tham dục thiêu đốt, mũi tên độc lợi dưỡng theo ngọn gió xấu ác thổi đến bắn vào tâm của mình, vì nhân duyên tham dục nên tâm điên đảo, ngày đêm sáu thời, lúc nào cũng suy nghĩ đến phương tiện tham cầu lợi dưỡng, như mèo lùng chuột, tâm không biết chán, như rắn bò bảy bước nhả độc khắp thân.

Người xấu ác như vậy khi tiếp xúc với lợi dưỡng như năm trăm rắn độc tụ tập trên thân, trong từng sát na, lửa độc nơi tâm người ấy bừng cháy không dứt. Suốt cả ngày đêm, gió mạnh phiền não thổi vào củi lợi dưỡng làm cho lửa nơi tâm bừng cháy không dứt. Rắn độc tranh nhau nhiễu hại mầm thiện căn. Vì những nhân duyên ấy khiến tâm mê ám cuồng loạn.

Tham độc mạnh mẽ, nên khi thấy người khác được lợi thì tâm mình như bị tên bắn, như chích vào mắt, như đâm vào tai, các căn bế tắc. Năm trăm năm loại rắn, bốn rồng độc lớn, năm giặc rút dao, sáu thân La Sát, mỗi khi chúng hoành hành thì phát sinh cuồng loạn, cần phải mau chóng chữa trị.

Phương pháp điều trị là: Trước hết nên quán hơi thở, buộc tâm vào định, quán tưởng hình Tượng Phật cao một trượng sáu, thân màu vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng an tọa nơi Tòa Sư Tử báu, trong hang bảy báu, nơi núi Kỳ Xà Quật, đang thuyết pháp trừ bỏ tham dục cho đại chúng.

Đức Phật ấy bảo các pháp tử: Các ông quán tưởng người tham dục đang mặc Cà Sa, sáu vật đều đầy đủ, nhưng đấy như là rừng rậm gai gốc, kim châm đan xen dày kín, sẽ sinh nơi rừng kiếm, có trăm ngàn đinh sắt nhọn đâm xuyên các thứ trùng mỏ sắt xúm lại rúc rỉa nơi thân ông, nước đồng sôi đầy vạc, cửa sắt, giường sắt là tọa cụ của ông. Phẩn dơ rắn độc, thỏi sắt nước sôi, rừng đao kiếm kích, trăm ức thứ gai gố, sông lửa trôi chảy là nước đồng, tro than máu mủ đều là thức ăn nước uống của ông.

Khi Đức Thế Tôn thuyết giảng lời này xong thì im lặng, khiến Hành Giả tự thấy thân mình nằm trong bức tường thành bằng sắt bảy lớp, thấy năm quỷ La Sát tách miệng làm hai, rồi dùng tám mươi móc sắt kéo lưỡi ra, có vô lượng lưỡi cày bằng sắt hình như cây kiếm để cày trên lưỡi kia. Nơi sừng bò sắt chảy ra nước đồng tích tụ trong thân với trăm ngàn màu sắc mủ, các loài trùng ở đấy nhiều không thể kể hết.

Khi thấy sự việc như vậy, tâm Hành Giả rất hoảng sợ, xuất định, nhập định, đều thấy y phục đang mặc toàn là máu, mủ trộn lẫn phân dơ, rừng đao kiếm kích dùng để trang sức, thấy các thứ vật dụng ăn uống giống như giun, trùng, trăm ngàn loại trùng sinh ra máu mủ, tám mươi loài trùng mỏ sắt như trùng gió, trùng lửa, trùng nước, trùng đất, tất cả các trùng trong địa ngục đều nôn ra máu mủ độc hại tràn đầy nơi Bát Đa La, kiếm kích thỏi sắt nóng dùng làm trái cây.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Sinh tử không đoạn dứt

Vì nếm vị tham dục

Oán chất chồng như núi

Nhận chịu mọi khổ đau.

Thân hôi như thây chết

Chín lỗ chảy bất tịnh

Như trùng xí ưa phân

Ngu tham thân không khác.

Người trí nên quán thân

Không đắm nhiễm thế gian

Không lụy vào các dục

Gọi là chân Niết Bàn.

Như Chư Phật đã dạy

Nhất tâm hành thiền định

Chỗ vắng quán hơi thở

Gọi là hạnh Đầu Đà.

Này Xá Lợi Phất! Lợi dưỡng làm tổn hại đến thân, làm cản trở thiện căn không thể nào nói hết được, chỉ nên nhất tâm quán niệm hơi thở. Nếu có người uống được thuốc này chính là bậc Đại trượng phu, là thầy của hàng trời, người, là bậc chủ điều ngự trong loài người, là vị đã thoát khỏi bùn dơ tham dục, không bị chìm đắm vào nước kết sử nơi sông ân ái, không còn bị tham lam lợi dưỡng chẳng lành nhiễu hại.

Nên biết người ấy, tuy chưa ra khỏi sinh tử, nhưng thân mạng ấy đã tỏa hương tinh khiết như hương hoa Ưu Ba La, là người mà các hàng Hương tượng, Long Vương, Lực Sĩ, Ma Hê Thủ La không thể sánh kịp, là bậc Đại lực trượng phu được hàng trời, người cung kính.

Này Xá Lợi Phất! Ông nên thọ trì tốt pháp môn này và thuyết giảng cho bốn chúng cùng hành trì cẩn thận, đừng để quên mất.

Khi ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan nghe Phật thuyết giảng xong, liền hoan hỷ phụng hành.

Phép chữa trị phạm giới.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức xoa ma na ni, Sa Di, Sa Di ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nào thọ trì giới cấm của Phật mà thân tâm bị cuồng loạn giống như vượn khỉ thì như trồng cây chưa kịp sinh trưởng mà diệt cành phá rễ. Bảy bộ chúng đối với giới cấm của Phật cũng như vậy. Hình sắc của giới chưa sinh mà đã phạm Đột Kiết La cho đến phạm Ba la di.

Như voi say không phân biệt tốt xấu, không biết phương hướng, giẫm đạp tất cả các vật tốt đẹp. Cũng vậy, bốn chúng giẫm phá giới cấm thanh tịnh nơi ao hoa sen xanh. Sức mạnh của việc phá giới giống như chó điên dại, thấy người như thấy cây gỗ, cho đến các loài cầm thú, nó liền theo cắn.

Người ác phạm giới thấy sự thanh tịnh của Phật, La Hán, hay ruộng phước công đức của Tỳ Kheo thì liền theo nhục mạ, hủy báng chê bai. Kẻ ấy tự uống thuốc độc, toàn thân hiện máu, chân tay bốc lửa cuồng loạn vô trí. Gió kết sử mạnh dữ, núi phiền não chuyển động, tham dục làm mắt, sân giận làm tay chân, ngu si làm thân thể, giẫm đạp thế gian, gieo trồng hạt giống ác, đã tự gieo trồng điều xấu lại bảo người khác tìm cầu.

Lính canh nơi địa ngục, La Sát A bàng đầu trâu, quỷ ác nơi kiếp hỏa, thần linh của rừng kiếm, Diêm La Vương… mười tám chủ ngục, thường giao kết làm bạn bè thân tình, là thiện tri thức, chắc chắn ngày đêm sẽ bị trôi lăn nơi chốn địa ngục xấu ác như vậy. Người phá giới bị lửa mạnh của các thứ ác xâm nhập vào tâm, đều vì lợi dưỡng, đều vì danh tiếng.

***