Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Pháp Bí Yếu Trị Bệnh Thiền

PHẬT THUYẾT KINH

PHÁP BÍ YẾU TRỊ BỆNH THIỀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tự Cừ Kinh Thanh, Đời Lưu Tống
 

PHẦN NĂM
 

Bấy giờ, cả chúng hội dùng kệ tán thán:

Thái Tử Nhật Chủng Vương

Con cháu giòng Cam Giá

Cháu ngoại Tịnh Quang Nguyệt

Con Hoàng Hậu Ma Da.

Chào đời đi bảy bước

Giẫm chân động đại thiên

Thần mười phương ứng hiện

Ba mươi hai tướng tốt.

Từ bỏ ngôi Quốc Vương

Ngồi nơi cội Bồ Đề

Lập Đạo Tràng Kim cương

Điều phục vạn ức ma.

Chứng đắc quả Bồ Đề

Mặt đẹp như trăng rằm

Tâm cấu uế diệt tận

Chúng con nguyện đảnh lễ.

Bậc tối thắng dòng Thích

Bậc từ bi hơn cả

Bậc khiến cho chúng sinh

Giải thoát khổ sinh tử.

Khi nghe đại chúng nói kệ xong, Đức Thế Tôn ân cần duỗi cánh tay màu vàng ròng xoa đảnh đầu Tôn Giả Xá Lợi Phất và Tôn Giả A Nan và phó chúc việc này.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả A Nan cùng tất cả đại chúng nghe Phật thuyết giảng xong, đều hoan hỷ phụng hành.

Phép trị bệnh vướng vào ma quỷ, đủ thứ không an, không đạt thiền định của người mới tập ngồi thiền.

Tôi nghe như vậy!

Một thời, Đức Phật ở tại trú xứ của quỷ Na Lợi Lâu, nơi khu vườn rừng Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ.

Bấy giờ, tại giảng đường của Phu Nhân Mạt Lợi xây dựng nên, có La tuần du cùng với một ngàn người con của hàng trưởng giả vừa mới xuất gia, thỉnh Tôn Giả A Nan, Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn Giả Xá Lợi Phất… để làm Hòa Thượng.

Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp hướng dẫn một ngàn Tỳ Kheo quán niệm hơi thở, an trú chốn vắng vẻ. Hành Giả vướng vào ma quỷ, thấy một quỷ thần, mặt như chiếc đàn Tỳ Bà, bốn mắt hai miệng, trên mặt có ánh sáng, dùng tay vỗ hai bên nách xuống khắp thân thể.

Miệng xướng lời: Phụ dịch, phụ dịch, như xoay vòng lửa, giống luồng sáng chớp lúc đỏ lúc tắt, khiến cho tâm của Hành Giả không an ổn. Nếu thấy việc như vậy nên mau chóng chữa trị.

Phương pháp đối trị là hướng dẫn người này một khi nghe quỷ Phụ dịch thì nhất tâm, yên lặng, nhắm mắt, âm thầm nói: Nay ta đã nhận ra ngươi, biết là ngươi ở trong cõi Diêm Phù Đề, ăn lửa, ngửi hương, trộm lấy thịt ngon, làm các việc tà kiến, thích phá hoại giới pháp.

Nay ta trì giới, hoàn toàn không sợ ngươi. Khi ấy, nếu người xuất gia nên đọc tụng giới văn, nếu người tại gia nên đọc tụng ba pháp quy y, năm giới, tám giới thì quỷ liền vội vã quay mặt bỏ đi.

Khi nghe lời này, Tôn Giả A Nan liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hôm nay các Tỳ Kheo là con của các bậc trưởng giả này nhân theo lời dạy của Thế Tôn để đối trị quỷ Phụ dịch nhằm thoát khỏi các ma ác, không còn bị vướng mắc vào ma quỷ.

Sau khi Phật nhập Niết Bàn, trải qua hàng ngàn năm, nếu có Tỳ Kheo muốn hướng dẫn các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, ở chỗ vắng lặng quán niệm hơi thở an trú nơi thiền định, nếu có các quỷ thần vì muốn phá đạo, hóa làm hình chuột, hoặc đen hoặc đỏ đến làm rối tâm ý, cào chân cào tay, gãi tai Hành Giả, không thể nào là không quấy phá, hoặc làm tiếng chim kêu, hoặc làm tiếng ngâm của quỷ, tiếng kẻ trộm.

Hoặc có quỷ cáo, giả làm hình nữ, trang điểm khắp thân, đến chỗ Hành Giả, âu yếm vuốt ve nói lời phi pháp, hoặc hiện làm chó gào sủa vô độ, hoặc hiện trăm loài chim điêu, thứu hung ác, phát ra đủ thứ âm thanh, kêu la thảm thiết, hoặc hiện trẻ con hàng trăm ngàn đứa xếp thành hàng hoặc một hoặc hai, hoặc năm hoặc mười, tạo đủ âm thanh đến bên Hành Giả.

Hoặc thấy có ruồi, muỗi, sâu bọ, rệp, bọ chét vào trong lỗ tai kêu như ong chúa, hoặc vào trong mắt tựa như cát sỏi, làm đủ thứ việc loạn tâm khiến Hành Giả phát cuồng loạn, rời xa nơi vắng lặng, tạo hành động phóng túng, nên phải đối trị như thế nào?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ông hãy lắng nghe cho kỹ và khéo tư duy điều này, Như Lai sẽ giảng thuyết cho ông. Nếu có người trong bon chúng bị quỷ ấy quấy nhiễu, ông nên giảng nói cho họ về pháp môn đối trị ma quỷ. Loài quỷ Phụ dịch này có sáu mươi ba tên gọi. Trong quá khứ, thời Đức Phật Ca Na Hàm Mâu Ni có một Tỳ Kheo sắp dự vào hàng Tu Đà Hoàn hướng, nhưng vì tà mạng nên bị Chúng Tăng ruồng đuổi.

Sau đó do sân giận mà chết bị đọa làm quỷ, cho đến ngày nay trở lại gây não hại nơi bốn bộ chúng. Quỷ sống một kiếp sau khi chết lại rơi vào địa ngục A tỳ. Các ông nên biết, vì thế ngày nay nhận lấy tên gọi này. Các ông hãy nhất tâm buộc niệm, đừng làm loạn tâm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết Thần Chú:

Ca phục khơn na khưu ni chi lệ phú, khứu phú khứu, a ma lặc ca, sa trá ha.

Quỷ Phụ dịch này là Dạ Xoa ác, cũng gọi là quỷ mộng.

Khi mộng thấy quỷ này liền mất tinh thần, nên phát tâm sám hối: Khi quỷ Phụ dịch đến.

Nên nói: Ta ở đời quá khứ gây tạo nhân duyên ác nên gặp quỷ ác, giặc phá hủy giới cấm. Ngày nay ta dùng roi tâm, trói buộc các căn không để nó buông lung. Nếu thần quỷ này trú trong hư không thì gọi là quỷ Hư Không, quỷ ở trên giường nệm gọi là quỷ Phúc Hành. Lại có ba tên gọi, một tên la Thâm Sách.

Tên của các quỷ: Quỷ phương đạo, quỷ ly mị, quỷ vọng lượng, quỷ ăn máu mủ, quỷ vừa ăn vừa nhổ, quỷ thần nước, quỷ thần lửa, quỷ thần núi, quỷ thần vườn rừng, quỷ phụ nữ, quỷ nam tử, quỷ đồng nam, quỷ đồng nữ, quỷ Sát Lợi, quỷ Bà La Môn, quỷ Tỳ Xá, quỷ Thủ Đà, quỷ đi bộ, quỷ vừa đi vừa lộn, quỷ cỡi xe, quỷ tai lừa, quỷ đầu cọp, quỷ tiếng như mèo con, quỷ hình chim tu hú, quỷ tiếng cú tai mèo…

Hoặc hóa làm tám bộ chúng quỷ thần: Quỷ hư hao, quỷ tám sừng, quỷ chuột trắng, quỷ liên hoa sắc, quỷ hồ mị, quỷ quỷ mị, quỷ bách trùng tinh mỵ, quỷ tứ ác Tỳ Xá Già, quỷ Cưu Bàn Trà. Các loại quỷ thần xấu ác như vậy có đến sáu mươi ba loại tên gọi.

Mỗi khi bị quỷ đến quấy nhiễu, phải nên quán hơi thở, vào nơi vắng lặng chí tâm niệm danh hiệu bảy vị Phật quá khứ: Đảnh lễ Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Đề Xá, Phật Câu Lâu Tôn, Phật Ca Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca Mâu Ni, xưng niệm các danh hiệu Phật xong.

Nên nhớ trì niệm tất cả Đà la ni âm thanh Phật liền thuyết Thần Chú:

A di a di ca lê xa toan đà lợi phúc khí xí thâu thế tha thâu thế tha Ma Ha ca lâu ni ca di Đa la Bồ Đề tát đỏa.

Nếu có người bị quỷ Phụ dịch làm loạn tâm ý, hoặc tạo ra các cảnh giới huyễn hóa thì nên thọ trì Thần Chú, niệm danh hiệu bảy Đức Phật này và Bồ Tát Di Lặc, nhất tâm quán niệm hơi thở, tụng Ba la đề mộc xoa, trải qua một trăm lần thì các loài quỷ ác này đều được điều phục, mãi mãi chúng sẽ không bao giờ não loạn việc hành đạo của bốn bộ chúng.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ông nên thọ trì tốt pháp môn diệt trừ quỷ ác, điều phục oai nghi, làm thanh tịnh thân, miệng, ý, vì để tăng trưởng hàng đệ tử trong bốn bộ chúng, làm cho họ không khởi sinh niệm cuồng loạn, chứng đắc tam muội, hãy nên thọ trì tốt, cẩn thận đừng để quên mất.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan nghe Phật thuyết giảng xong, liền hoan hỷ phụng hành.

Lại nữa, này A Nan! Nếu khi Hành Giả tọa thiền, bị đau hai tai, xương cốt nơi toàn thân đau đớn, hai bàn tay ngứa ngáy, hai chân tê nhức, tim bị chèn ép, gân chuyển mắt mờ, chỗ tọa thiền bị quỷ đến tìm cách chiếm cứ, hoặc rải hương hoa, hoặc làm đủ trò yêu quái, cần nên mau chóng chữa trị.

Pháp môn đối trị là: Trước hết quán tưởng hai vị Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng, tay cầm bình vàng đem nước rưới cho Hành Giả. Lại quán vị thần vương núi Tuyết cầm một hoa trắng đi đến chỗ Hành Giả che trên đảnh đầu, hào quang trắng tỏa ra nhập vào thân, thấm nhuần nơi các lỗ chân lông trên thân khiến thân Hành Giả được dịu dàng tốt đẹp, không còn các dị tướng.

Sau đó, lại thấy đồng tử Đồ Bà cầm hoa của Tiên Nhân tung rải lên trên chỗ Hành Giả, giữa mỗi một hoa tuôn ra thứ thuốc vi diệu thấm vào các lỗ chân lông, khiến cho các thứ bệnh khổ đau đớn trên thân, các âm thanh, lời lẽ thầm kín của chúng quỷ thần hoàn toàn không còn nữa, được Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng thuyết giảng pháp đại thừa bình đẳng.

Thần núi Hương, thần núi Tuyết, tất cả các thần vương và Đồng tử Đồ Bà cũng tùy theo căn tánh của Hành Giả mà thuyết giảng đủ mười hai pháp môn thiền định, tùy bệnh cho thuốc, đúng pháp chữa trị, vận dụng các chú thuật. Nhân đó, Hành Giả được gặp Tôn Giả Tân Đầu Lô và các vị La Hán, năm trăm Sa Di như Thuần Đà Bà… cùng một lúc đều đi đến chỗ Hành Giả, mỗi một vị Thanh Văn đều thuyết đủ thứ pháp môn trị bệnh cho người.

Hoặc có A La Hán theo lời Phật dạy, hướng dẫn cho Tỳ Kheo, khoét trên đảnh đầu, dần dần khiến toàn thân đều không, lấy dầu rưới lên thân, quán có Phạm Thiên cầm thuốc màu vàng ròng rưới lên thân làm cho thân đầy đặn lại. Các Bồ Tát là lương y thuyết giảng đủ các pháp môn.

Nếu người phát tâm Thanh Văn thì theo sự thuyết giảng của Tôn Giả Tân Đầu Lô sẽ đắc quả Tu Đà Hoàn. Nếu người phát tâm đại thừa, theo sự thuyết giảng của hai vị Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng sẽ chứng đắc tam muội hiện tiền của Chư Phật.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Sau khi Phật diệt độ, nếu bốn chúng đệ tử muốn ngồi thiền, trước hết ở nơi vắng lặng, ngồi ngay thẳng trong bảy ngày, sau đó, tu tập quán niệm hơi thở trong bảy ngày, lại nên uống các loại thuốc trừ bệnh này để dứt bỏ các bệnh, định tâm giữ ý, tu tập thân tâm, điều hòa các đại, không để thời gian trôi qua, một lòng một dạ không phạm giới cấm và các oai nghi, đối với việc trì giới như giữ tròng con mắt. Như người bệnh nặng tùy theo sự hướng dẫn của thầy thuốc.

Hành Giả cũng như vậy, luôn luôn tăng tiến, không để thoái thất, như cứu lửa cháy đầu, luôn nhớ nghĩ đến lời dạy của Thánh Hiền. Đây là thuốc đối trị bệnh tạo sự điều hòa cho thân.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ông nên thọ trì tốt đẹp, hãy cẩn thận thực hành đừng quên mất.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan nghe Phật thuyết giảng xong, liền hoan hỷ phụng hành.

***