Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Pháp Thiền Bí Yếu

PHẬT THUYẾT

KINH PHÁP THIỀN BÍ YẾU

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
 

PHẦN TÁM
 

Lại phải buộc niệm như trước quán đốt xương lớn giữa hông. Lúc quán đốt xương lớn định tâm không khuấy động lại tự thay thân càng sáng rõ hơn trước kia nhiều lần như đồng tiền lớn vậy.

Hành giả lại càng tinh tấn gấp bội, liền lại thấy ánh sáng trong thân tăng gấp bội, như rửa sạch miệng bình, vật sáng trên thế gian không ví dụ dược.

Thấy việc này rồi, hành giả chuyên cần tinh tấn gấp bội, tâm không thoái lui biếng nhác, lại thấy ánh sáng đang ở trước ngực như gương sáng vậy.

Lúc thấy ánh sáng này hành giả phải chuyên cần tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, ân cần không ngừng nghỉ, liền thấy ánh sáng này càng thêm rực rỡ. Bảo châu của Chư Thiên cũng không thể sánh được. Ánh sáng ấy thanh tịnh không có các vết xước bẩn và có bảy màu. Từng ánh sáng có bảy màu tư trong ngực phát ra nhập vào trong ánh sáng.

Lúc tướng này hiện, hành giả rất hoan hỷ, tự nhiên vui sướng tâm rất yên ổn không có vật gì có thể làm thí dụ. Hành giả lại phải tinh tấn, tâm không biếng nhác nghỉ ngơi, thấy ánh sáng như mây nhiễu quanh thân bảy vòng.

Mỗi một ánh sáng ấy hóa thành bánh xe ánh sáng, ở trong bánh xe ánh sáng tự nhiên thấy tướng mạo căn bản của mười hai nhân duyên, nếu không tinh tấn, giải đãi biếng nhác thì phạm giới khinh cho đến tội Đột Kiết La, liền thấy ánh sáng tối đen giống như vách tường, hoặc thấy ánh sáng này giống như tro than, lại thấy ánh sáng này giống cái áo vá cũ kỹ hư rách. Đó là ý buông lung khinh tội nhỏ mà gây chướng ngại ánh sáng vô lậu của Thánh Hiền.

Phật bảo Tôn Giả A Nan: Pháp Môn quán bất tịnh quán đảnh này, các Bậc Thánh Hiền dạy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nếu có muốn tu các pháp của Bậc Thánh Hiền phải quán kỹ các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, nhân duyên như là học sổ tức, khiến tâm không tán loạn.

Hành giả phải siêng giữ giới, nhất tâm nhiếp giữ, đối với tội nhỏ cũng phải hổ thẹn và chuyên cần sám hối, cho đến tội nhỏ cũng cẩn thận đừng che giấu. Nếu che giấu tội sẽ thấy ánh sáng như gỗ mục nát.

Thấy rõ việc ấy, liền biết mình đã phạm giới, lại phải hổ thẹn, sám hối, tự trách, quét dọn, rải hương thơm trên đất, làm các việc khổ nhọc, lại phải cúng dường cung kính sư trưởng, phụ mẫu. Đối xử cha mẹ như đối với Phật hết sức cung kính.

Hành giả lại phải theo thầy và cha mẹ, cầu thệ nguyện rộng và nói rằng: Tôi nay cúng dường Sư Trưởng, cha mẹ. Nguyện nhờ công đức này mà con đời đời được giải thoát. Hổ thẹn như vậy và tu các công đức rồi đếm hơi thở như trước, trở lại thấy ánh sáng này sáng tỏ đáng yêu như trước không khác.

Hành giả lại phải buộc niệm quán kỹ đốt xương lớn giữa hông, khiến tâm an định không có phân tán. Giả sử có loạn tâm lại phải tự trách, hổ thẹn sám hối. Đã sám hối lại thấy ánh sáng trong rốn đầy đủ bảy màu giống như bảy báu, phải khiến ánh sáng này hợp làm một ánh sáng trắng, đẹp đáng yêu.

Thấy việc ấy rồi, trở lại dạy buộc niệm tư duy như trước, quán bộ xương trắng trắng như ngọc kha, như tuyết. Đã thấy bộ xương trắng rồi, lại phải dạy buộc niệm trụ ý ở trên đỉnh bộ xương, thấy đỉnh bộ xương tự nhiên phóng quang.

Ánh sáng đó rất mạnh giống ngọn lửa mạnh, dài, ngắn, thô, tế nối thẳng như cây giáo dài, từ trên đỉnh ấy lộn ngược rơi xuống nhập vào xương đỉnh, từ xương đỉnh ra nhập vào xương cổ, từ trong xương cổ ra nhập vào trong ngực, từ xương ngực ra trở vào trong rốn, từ trong rốn ra liền vào trong đốt xương lớn của xương sườn.

Nhập vào trong đốt xương lớn rồi, ánh sáng liền diệt mất. Ánh sáng diệt mất rồi, ngay lúc đó có một đám mây ánh sáng lớn tự nhiên trang nghiêm bằng các vật báu và hoa báu thanh tịnh.

Bên trên phía trong các màu sắc có một vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, ánh quang minh đầy đủ có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mỗi mỗi tướng đều phóng ngàn ánh sáng. Ánh sáng này rất sáng như ức ngàn mặt trời sáng rực rỡ chói lọi. Phật ấy cũng thuyết pháp bốn Chân đế. Phật có ánh sáng trụ trước hành giả dùng tay xoa đầu.

Hóa Phật lại dạy: Đời trước ông do nhân duyên tham dục, sân hận, ngu si theo đuổi các việc ác. Do vô minh che lấp khiến ông đời đời thọ thân sinh tử. Ông nay nên quán các việc tiều tụy héo gầy trong thân ông, các lửa ngoài thân đều diệt hết.

Nói lời này rồi, hóa Phật dạy trở lại pháp quán bất tịnh như trước, quán các trùng trong thân chết và rơi xuống. Thấy việc này rồi, hành giả lại phải nổi lửa thiêu đốt các con trùng. Trùng đã không chết lại tự thấy thân như pha lê trắng, trắng đẹp tự nhiên.

Thấy ánh sáng rồi từ trên đầu phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy lớn, nhỏ, thô, tế như cây giáo, khiến cho nó dài một trượng năm. Lại phải nghĩ khiến đầu hướng về phía sau, lại nghĩ khiến cổ hướng về phía sau, khiến thân đều đảo ngược dùng đầu chống xương sườn đối diện với đốt xương lớn ở rốn. Thấy việc ấy, lại phải quán kỹ khiến bộ xương trắng cùng màu với ánh sáng.

Đã cùng màu rồi, hành giả thấy ánh sáng ngay ngắn, có trái cây đủ loại màu. Thấy trái cây rồi lại thấy các ánh sáng từ đầu trái cây ra có anh sáng màu trắng. Ánh sáng ấy rực rỡ như đám mây báu màu trắng. Các bộ xương người ấy có màu trắng đẹp không khác ánh sáng.

Lại thấy các bộ xương bị gãy vỡ rơi rớt, hoặc có bộ xương đầu rơi xuống đất, có bộ xương các đốt xương đều bị phân tán, có bộ xương xương trắng trong toàn thân giống như gió mạnh thổi mưa tuyết, tụ lại hoặc phân tán không nhất định, giống như sấm chớp thoạt hiện thoạt mất.

Các xương người này rớt xuống đất thành đống, giống như núi đất, tợ như mạt vụn của cây mục, tụ tập một chỗ. Hành giả tự quán thấy ở trên núi đất có khí tự nhiên phát ra, lên đến hư không giống như mây khói. Màu nó trắng tươi đầy khắp hư không, xoay qua bên phải rồi tụ tập trở lại cùng một chỗ.

Lúc thấy việc ấy, lại phải dạy tưởng một xương người. Hành giả thấy bộ xương người này thân có chín màu, chín nét rõ ràng. Trong mỗi một nét có xương người chín màu, sắc nó sáng tươi không thể nói hết. Mỗi mỗi xương người lại phải khiến thân thể đầy đủ sáng tỏ, phản chiếu vào trong bộ xương người phía trước làm không chướng ngại.

Quán điều này rồi, lại phải quán trong mỗi sắc giống như lưu ly, không có các chướng ngại. Ở trong sắc có chín mươi chín màu, mỗi một màu lại có rất nhiều xương người chín màu. Các bộ xương ấy có đủ loại tướng tánh, nó không giống nhau, không trở ngại lẫn nhau.

Thấy việc ấy rồi, nên siêng năng tinh tấn diệt tất cả ác. Rõ việc này rồi, đám mây ánh sáng tụ tập lúc trước giống như bình đất, đến nhập vào thân đó, từ rốn nhập vào, đã nhập vào rốn rồi vào trong xương sườn, vào xương sườn rồi tự thấy thân mình không khác xưa bình phục như cũ. Xuất nhập định nhờ đếm hơi thở, thường thấy việc trên.

Lúc thấy việc này, lại phải dạy trở lại, buộc tâm trụ ý ngay ở trong ánh sáng lỗ rốn của mình, không cho tâm tan loạn. Bấy giờ tâm ý hết sức an ổn. Đã an ổn rồi lại tự học phân biệt kỹ càng các thánh giải thoát.

Bấy giờ lại thấy bảy Phật quá khứ thuyết pháp cho hành giả. Pháp được thuyết là pháp bốn chân đế, pháp năm thọ ấm, không, vô ngã, vô ngã sở.

Khi ấy Chư Phật cùng với các Hiền Thánh, thường đến trước hành giả dạy các chủng loại pháp, cũng dạy Tam Muội quán không, vô ngã, vô tác, vô nguyện.

Chư vị dạy: Này Pháp Tử! Nay ông phải quán kỹ: Sắc, thanh, hương, vị, xúc đều vô thường, không được dừng lâu, mau chóng như điện, tức thời biến mất, cũng lại như huyễn hóa giống như bóng nắng, như ánh lửa lúc nóng, như thành Càn Thát Bà, như chỗ thấy trong mộng, tỉnh ra không biết nó ở đâu, như đục đá thấy tia sáng, biến mất trong chốc lát, như chim bay trên không không thể tìm dấu vết, như tiếng vang không có người đáp. Nay ông cũng phải quán như vậy.

Tam giới như huyễn cũng như biến hóa, ở đây liền thấy trong thân và ngoài thân, trống rỗng không có sở hữu, như chim bay trên không, không vướng vào đâu. Tâm vượt ba cõi quán các thế gian, núi Tu Di, biển lớn đều không dừng lâu cũng như huyễn hóa.

Hành giả tự quán thân mình, không thấy tưởng của thân liền nghĩ rằng: Thế Giới vô thường, ba cõi không an, chỗ nào có thân và đối tượng của mắt. Các sắc dục này và các nữ nhân, từ điên đảo khởi lên, lầm thấy là đáng yêu, thật ra chúng là pháp mục rã bại hoại một cách mau chóng.

Ôi nữ sắc giống như gông cùm làm lao nhọc thần thức của người, kẻ phàm phu ngu muội yêu mến bám víu, không biết chán biết đủ, không thể tư tách ra, không tránh khỏi gông cùm, không chặt đứt được xiềng xích.

Hành giả đã biết tướng của pháp, biết pháp trống không, các sắc dục này giống như giặc thù, có gì đáng mến tiếc. Chúng cũng giống như lao ngục chắc chắn kín đáo khó thoát.

Ta nay quán không nhằm lìa ba cõi, quán thấy thế gian như bọt nổi trên nước, chắc chắn phải bị diệt. Tâm không các tưởng biết rõ các pháp ở thế gian là tai họa phiền lụy nặng nề. Phàm phu mê hoac đến chết không giác ngộ, không biết các khổ, mê đắm khó thoát, mặc tình lừa dối không chỗ nào là không đến.

Ta nay quán nữ sắc hư dối ấy, như âm vang của tiếng gọi, cũng như bóng trong gương, tìm cầu không thể được. Quán nữ sắc này là ở chỗ nào, vọng kiến suy kém tai hại lừa dối các phàm phu, gây hại ngày càng nhiều.

Nay quán sắc này giống như chùm hoa rơi rụng theo gió, không từ đâu xuất hiện, không đi về đâu, huyễn hoặc không thật, người ngu tham ưa dính mắc. Nay quán sắc này, tất cả vô thường như người bệnh hủi được lương y trị hết bệnh.

Ta nay quán khổ, không, vô thường, thấy sắc tướng này đều không chắc thật, nghĩ các phàm phu rất là đáng thương xót. Họ đắm nhiễm sắc ấy, trọng vọng không biết chán, đam mê vướng mắc, say đắm vô cùng, vì các ân ái mà làm nô bộc, muốn lấy giáo đâm mình, làm đau đớn xương tủy, gông cùm ân ái ràng buộc thân.

Nghĩ như vậy roi, lại quán tất cả đều trống không, các dâm dục này, các tình trạng của sắc đều từ năm ấm bốn đại mà sinh. Năm ấm không chủ, bốn đại vô ngã, tánh tướng đều không, các thứ đó do đâu mà có.

Lúc quán điều này, trí tuệ sáng tỏ, thấy thân rất sáng như hạt châu ma ni, không có trở ngại trong suốt như kim cương, trong sạch sáng tỏ như con nai phá lưới thì thoát khỏi sự khổ ách do người thợ săn đem lại.

Hành giả quán ngũ ấm tánh tướng đều sạch, quán sáu đại như chim bay lượn trên cao, thân không có chỗ nương cậy do nuốt phải lưỡi câu sắc dục, chủ động để vượt qua, xa lìa nữ sắc không khởi tình dục, tự nhiên vượt khỏi các biển dâm dục.

Tất cả các ket sử giống như các con cá, đuổi bắt lẫn nhau để rơi vào hố đen tối. Vô minh lão tử bị lửa trí tuệ thiêu đốt. Quán sự dơ bẩn của sắc, xấu xí bất tịnh, giống như huyễn hoặc không có tạm dừng, vĩnh viễn xa lìa sự ô nhiễm của sắc không bị sắc trói buộc nữa.

Phật bảo Tôn Giả A Nan: Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, những người tham dâm nhiều, trước hết phải dạy quán Phật khiến lìa các tội, sau đó mới dạy buộc niệm, khiến tâm không tán loạn.

Tâm không tán loạn đó là phương pháp sổ tức. Pháp sổ tức này là thuốc trị bệnh tham dâm, là chỗ thực hành của Đấng Pháp Vương Vô Thượng. Ông phải khéo thọ trì cẩn thận đừng để quên mất. Tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán Sổ tức thứ hai mươi.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan và Thiền Nan Đề cùng các Tỳ Kheo khen Phật nói, hoan hỷ phụng hành.

Tôi nghe như vậy: Một thời, Phật ở nước Xá Vệ, du hành giáo hóa tới thôn Đa La. Đến nơi ấy rồi, Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ Kheo vào thôn khất thực. Sau khi thọ trai xong, chư vị đứng bên gốc cây, rửa chân xếp y bát, trải ngọa cụ và ngồi kiết già.

Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ Kheo tên là Ca Chiên Diên, có một đệ tử tên là Bàn Trực Ca, xuất gia đã lâu, trải qua tám trăm ngày đọc tụng một bài kệ mà không thể thông đạt. Ngày đêm sáu thời, Tỳ Kheo ấy thường tụng lời này dứt ác hành thiện, tu không phóng dật chỉ tụng lời này nhưng cuối cùng không thể nhớ.

Bấy giờ Tôn Giả Ca Chiên Diên đem hết đạo lực của mình dạy dỗ đệ tử cũng không làm cho đệ tử hiểu được.

Tôn Giả liền đến gặp Phật, đảnh lễ nhiễu quanh Phật ba vòng, bạch Phật: Như Lai xuất thế, lợi ích rất nhiều, làm lợi lạc Cõi Trời, Người, phổ độ tất cả, chỉ riêng đệ tử con chưa được nhận lãnh, cúi xin Đức Thế Tôn hãy khai ngộ cho con làm cho ông ấy được giải thoát.

Phật bảo Tôn Giả Ca Chiên Diên: Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ! Hôm nay ta sẽ nói cho ông nghe nhân duyên ngày xưa.

Ca Chiên Diên thưa: Bạch Thế Tôn! Con rất muốn nghe.

Phật bảo Ca Chiên Diên: Trong quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có Phật Thế Tôn tên là Tỳ Bà thi gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Phật ấy xuất thế giáo hóa chúng sinh, xong việc độ người rộng khắp, Phật nhập Niết Bàn. Sau khi Phật diệt độ, có một Tỳ Kheo thông minh nhiều trí, đọc tụng tam tạng, ỷ giỏi sinh ra kiêu mạn, tán loạn phóng dật. Có người nào theo học, Tỳ Kheo ấy không chịu dạy bảo, chỉ chuyên lừa dối, cao ngạo, không tu chánh niệm.

Sau khi chết, Tỳ Kheo ấy bị đọa vào địa ngục Hắc ám, trải qua chín mươi kiếp thường ở chỗ tối, ngu muội không có trí. Do sức nơi công đức xuất gia trước đây, từ địa ngục ra ông ấy được sinh lên Trời. Tuy sinh lên Trời, ánh sáng nơi cung Trời và các đồ dùng đều đen tối, thấp kém hơn Chư Thiên.

Do tụng Tam tạng, khi hết tuổi thọ ở Cõi Trời, ông ấy sinh ở cõi Diêm Phù Đề và được gặp Phật đang tại thế. Vì trước đây cao ngạo nên tuy gặp Phật, ông ấy không hiểu Pháp Tướng. Ta nay phải thuyết các phương pháp dạy pháp buộc niệm cho ông ấy.

Bấy giờ, Tôn Giả Ca Chiên Diên bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Ngài hãy thuyết chánh pháp cho Tỳ Kheo Bàn Trực Ca ngu si này và tất cả chúng sinh ngu si loạn tưởng ở đời vị lai.

Phật bảo Tỳ Kheo Bàn Trực Ca: Từ ngày nay, ông phải thường ở chỗ yên tĩnh, nhất tâm ngồi ngay ngắn, xếp tay nhắm mắt, thu giữ thân, khẩu, ý cẩn thận đừng để phóng dật, ông vì phóng dật nhiều kiếp phải chịu lao khổ lâu dài. Ông phải quán kỹ các pháp theo lời ta dạy.

Khi ấy theo lời Phật dạy, Bàn Trực Ca ngồi ngay ngắn buộc tâm.

Phật bảo Tỳ Kheo Bàn Trực Ca: Nay ông phải quán kỹ đốt xương ngón chân cái, khiến tâm không di động, lam cho trên đốt ngón chân dần dần phồng lên, lại khiến phình trương lên, lại phải dùng ý khiến chỗ phình trương này dần dần lớn như cái bát đậu.

Ông phải dùng ý khiến nó phình trương, mục rã, da thịt tách ra hai bên, mủ vàng chảy ra. Ở giữa mủ vàng máu chảy ràn rụa. Trên một đốt da thịt thối nát hết, chỉ thấy đốt xương ngón chân phải trắng như ngọc kha, như tuyết.

Thấy một đốt rồi, từ chân phải dần dần rộng lớn cho đến nửa thân, phình trương, rã nát, mủ vàng chảy ra. Khiến da thịt ở nửa thân đều tách ra hai bên, chỉ thấy xương của nửa thân trong sáng và trắng.

***