Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Năm Mươi Bốn - Phẩm Nhân Duyên ưu đà Di

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
 

PHẨM NĂM MƯƠI BỐN

PHẨM NHÂN DUYÊN ƯU ĐÀ DI
 

PHẦN HAI
 

Bấy giờ Vua Thâu Đầu Đàn nghe Ưu Đà Di đọc những lời kệ buồn thương như vậy, nhưng vẫn còn chút ít nghi ngờ, liền hỏi Ưu Đà Di: Tôn Giả xuất gia ở nơi vị nào?

Đại Sư của Tôn Giả là ai?

Ưu Đà Di dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Cha thầy ta: Vua Thâu Đầu Đàn

Mẹ của thầy ta tên Ma Da

Mang thầy trong thai qua mười tháng

Sinh xong mẹ chết, sinh Đao Lợi.

Như vậy, thầy ta sinh nhà Ngài

Đại Thánh đức lớn Trời trong Trời

Nhà này bảy đời thường cứu tế

Danh tiếng lưu truyền khắp mười phương

Trong hàng Trượng phu thật ít có

Lại không sinh vào nhà nào khác

Đại Thánh chỉ sinh nhà như vậy.

Nhà này hưởng phước thật an nhàn

Thân tộc họ Thích danh tiếng lớn

Ngài được trăm phước trang nghiêm thân

Thích tử như vậy hơn loài Trời

Ta ở bên Ngài xin xuất gia.

Lúc ấy Vua Thâu Đầu Đàn lại hỏi Trưởng Lão Ưu Đà Di: Hay thay! Này Tỳ Kheo, thầy thật sự theo người nào xuất gia, mà vị thầy ấy có chánh tín, có chánh ý tu phạm hạnh hay không?

Thầy của Tôn Giả ngồi dưới gốc cây vắng vẻ, tâm có được an lạc hay không?

Trưởng Lão Ưu Đà Di lại dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Vua hỏi theo ai được xuất gia?

Vị này chánh tín tu phạm hạnh

Ở đâu, Ngài cũng chẳng lo sợ

Ngồi dưới gốc cây thường an lạc

Không sợ tiếng khác, như sư tử

Không bị lưới ngăn, như gió mạnh

Chỉ dạy người học, mình không học

Cứu khổ cho người, mình không khổ.

Vua Thâu Đầu Đàn lại hỏi Trưởng Lão Ưu Đà Di: Vị Tỳ Kheo như vậy nay ở đâu?

Ưu Đà Di đáp: Theo lời hỏi của Đại Vương thì hiện giờ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện đang ngự trong vườn Ni Câu Đà, nơi thành Ca Tỳ La này.

Lúc ấy Vua Thâu Đầu Đàn nghĩ: Ưu Đà Di là đệ tử của con ta. Vì vậy ta phải bảo các Đại Thần mời Ưu Đà Di ngồi.

Rồi nhà Vua bảo: Này các khanh, nay các khanh nên mời vị Tỳ Kheo này lên tòa an tọa.

Các Đại Thần nghe Vua dạy như vậy, liền tâu: Thưa Đại Vương, chúng tôi không dám trái lời. Các quan liền mời Ưu Đà Di ngồi.

Vua Thâu Đầu Đàn lại bảo các quan: Này các Khanh, nên dọn cơm cho vị Tỳ Kheo này ăn. Các quan nghe lời Vua dạy, liền mang nước sạch cho Ưu Đà Di rửa tay rồi dâng thức ăn cho Ưu Đà Di. Ưu Đà Di nhận thức ăn mà không ăn, ý định đem thức ăn này về cúng cho Thế Tôn.

Vua Thâu Đầu Đàn lại hỏi Trưởng Lão Ưu Đà Di: Tại sao thầy không ăn cơm?

Ưu Đà Di đáp: Thức ăn này tôi để dành dâng cúng Thế Tôn, vì vậy mà không ăn.

Khi ấy Vua Thâu Đầu Đàn lại càng áo não, buồn khóc, nước mắt ràng rụa mà than: Ôi thôi! Con ta thân thể mềm mại, xưa ở trong cung thường hưởng khoái lạc, thân không bị các khổ.

Ngày nay vì cớ gì bị khổ như vậy?

Đến nỗi bảo Tỳ Kheo đi khất thực, được đồ ăn về mới có ăn!

Vua Tịnh Phạn cất tiếng than vãn như vậy, buồn khóc nghẹn ngào, lại bảo Ưu Đà Di: Thầy cứ dùng phần ăn này. Ta sẽ cho người lấy một phần ăn khác đem cho thầy của thầy.

Ưu Đà Di lại tâu Đại Vương: Như thế này, thưa Đại Vương, phần ăn này tôi đã có ý định dâng cúng Thế Tôn rồi, thì bất cứ chúng sinh nào ăn phần ăn này đều không tiêu.

Tại sao vậy?

Vì Đức Thế Tôn giới hạnh hơn mọi người, thiền định hơn mọi người, trí tuệ cũng hơn mọi người.

Khi ấy Vua Thâu Đầu Đàn bảo các Đại Thần: Các khanh nên đem phần ăn khác dâng cho Tỳ Kheo này và dặn Tỳ Kheo ăn xong nên mau đem phần ăn này cho Thái Tử. Các Đại Thần lập tức đem phần ăn khác dâng cho Ưu Đà Di.

Khi Ưu Đà Di ăn xong, lại tâu Vua: Đúng vậy! Thưa Đại Vương, Đức Như Lai Thế Tôn, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác là bậc được hàng Vua chúa cho đến vô lượng vô biên chúng sinh đều cung kính. Như vậy, ngày nay Đại Vương cũng nên đến đó. Ưu Đà Di nói như vậy rồi, liền rời chỗ ngồi, định ra khỏi Hoàng Cung.

Vua Thâu Đầu Đàn lại bạch Trưởng Lão Ưu Đà Di: Tôn Giả về trước báo cho Thái Tử Tất Đạt Đa là chẳng bao lâu ta sẽ đến thăm Thái Tử. Ưu Đà Di cung kính nhận lời Vua. Ưu Đà Di mang phần cơm ra khỏi thành, về lại rừng Ni Câu Đà.

Đến nơi, Ngài bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, con đã giáo hóa Vua Thâu Đầu Đàn, khiến nhà Vua hoan hỷ nên Đại Vương sắp đến thăm Đức Thế Tôn.

Khi Ưu Đà Di vừa rời khỏi Hoàng Cung, Vua Thâu Đầu Đàn lại bảo các Đại Thần: Này các khanh phải biết, ngày nay Thái Tử Tất Đạt Đa đã đến thành này rồi.

Chúng ta phải làm gì bây giờ?

Các Đại Thần tâu: Lành thay! Tâu Đại Vương, nếu có các Sa Môn khác đến thành của Đại Vương, chúng ta còn phải cúng dường, cung cấp, huống nữa nay là Thái Tử Tất Đạt Đa cùng với bản thân chúng ta không khác, đâu được thản nhiên không sinh tâm cung kính.

Chúng ta chỉ theo ý của Đại Vương, rồi sau mới đến đó. Vua Thâu Đầu Đàn liền ra lệnh rung chuông thông báo mọi người trong nội thành đều hay biết.

Thông báo rằng: Ta nay sắp đi đến quán sát chỗ ở của Thái Tử Tất Đạt Đa. Mọi người đều phải trang hoàng một cách hoàn bị, rồi đi theo ta. Đây là lời nói của các thầy thuộc bộ Ca Diếp Di.

Theo các thầy thuộc bộ Ma Ha Tăng Kỳ lại nói:

Lúc bấy giờ Vua Thâu Đầu Đàn bạch Ưu Đà Di: Theo ý của Tỳ Kheo thì nên làm những món ăn gì để cúng dường Thái Tử?

Ưu Đà Di thưa Đại Vương: Như thế này, thưa Đại Vương, nếu muốn làm thức ăn cho Thế Tôn, thì nên làm món ăn ngon ngọt, trong sạch thanh khiết.

Khi ấy Vua Thâu Đầu Đàn ra lệnh các Đại Thần: Các khanh phải biết, vì Thái Tử các khanh nên mau mau làm các thức ăn ngon, trong sạch thanh khiết.

Các Đại Thần nghe Vua phán như vậy, lại tâu: Y như lời Đại Vương dạy, chẳng dám sai trái. Họ cùng nhau làm các món ăn uống sơn hào hải vị ngon ngọt thơm tho, trong sạch thanh khiết, làm xong giao cho Ưu Đà Di. Khi Ưu Đà Di ăn xong, mang các thức ăn uống sơn hào hải vị ngon ngọt thơm tho, trong sạch thanh khiết vừa mới làm xong, ra khỏi thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô, trở về rừng Ni Câu Đà.

Sau khi đến nơi, Trưởng Lão bạch Phật: Thưa Thế Tôn, con đã giáo hóa Vua Thâu Đầu Đàn, khiến nhà Vua sinh tâm hoan hỷ. Ngài sắp đến thăm Phật. Xin Phật nhận lãnh món ăn như pháp này.

Bấy giờ các Tỳ Kheo bạch Phật: Hy hữu thay!

Bạch Thế Tôn, tại sao Trưởng Lão Ưu Đà Di giáo hóa được Vua Thâu Đầu Đàn, khiến cho nhà Vua được hoan hỷ?

Lại có thể khiến nhà Vua làm các món ăn uống sơn hào hải vị ngon ngọt thơm tho, trong sạch thanh khiết đem về dâng cho Thế Tôn?

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Này các thầy, Ưu Đà Di chẳng chỉ ngày nay giáo hóa được Vua Thâu Đầu Đàn và đem món ăn uống ngon ngọt cho ta, mà thuở xưa cũng giáo hóa khiến Vua Thâu Đầu Đàn sinh tâm hoan hỷ và đem món ăn ngon ngọt dâng cho ta.

Khi ấy các Tỳ Kheo lại bạch Phật: Việc ấy như thế nào, cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng con mà kể rõ. Chúng con nay nguyện muốn nghe.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Ta nhớ vào đời quá khứ lâu xa, tại nước Ba La Nại có một con chim chúa tên là Tô phất Đa La nhà Tùy dịch là thiện tử cùng bầy chim tám vạn con hòa hợp với chim chúa đồng sống tại nước này. Chim chúa có một chim mái tên là Tô Phất Thất Lợi nhà Tùy dịch là Thiện Nữ.

Thuở ấy, chim mái giao hợp với chim chúa đã có mang, chim mái bỗng sinh ý nghĩ: Ta muốn được thức ăn uống thơm ngon, trong sạch như thức ăn của Vua loài người ngày nay vậy. Nhưng vì sợ mơ ước không toại nguyện nên chim mái lần lần buồn rầu, thân thể tiều tụy ốm o, đứng run rẩy không vững.

Chim chúa Thiện Tử thấy vợ mình lăn lộn trên đất, buồn rầu tiều tụy ốm o, đứng run rẩy không vững nên hỏi: Vì lý do gì nàng lăn lộn trên đất, thân thể tiều tụy ốm o, đứng run rẩy không vững như vậy?

Chim mái đáp: Lành thay! Thưa Thánh Tử, thiếp đang có mang, bỗng nghĩ muốn được thức ăn sơn hào hải vị thơm ngon trong sạch như thức ăn nhà Vua vậy.

Lúc ấy chim chúa than với vợ: Lạ thay! Này hiền thê, ta làm sao được thức ăn uống thơm ngon như vậy. Cung Vua thì kín đáo sâu xa, không thể đến được. Nếu ta có vào đó sẽ sa vào tay họ, nhất định bỏ thây.

Chim mái lại thưa với chim chúa: Này Thánh Tử, nếu ngày nay thiếp không được thức ăn uống như vậy, nhất định sẽ chết và bào thai nhất định sẽ không còn sống.

Chim chúa lại nói với chim mái: Lạ thay! Này hiền thê, ngày chết của nàng sắp đến, nên mới nghĩ đến thức ăn khó được như vậy.

Chim chúa nói như vậy rồi, ưu sầu khổ não đứng suy nghĩ: Theo ý ta nghĩ, thức ăn uống thơm ngon trong sạch như thức ăn của nhà Vua, thật là khó được.

Lúc ấy trong bầy chim của chim chúa có một con thấy sự việc này, bay đến chỗ chim chúa thưa: Lạ thay! Thưa Thánh Giả, vì cớ gì Ngài đứng suy tư sầu não như vậy?

Chim chúa Thiện Tử nói rõ chi tiết nguyên nhân sự việc vừa qua.

Chim kia lại thưa với chim chúa Thiện Tử: Lành thay! Thưa Thánh Tử, xin chớ ưu sầu. Tôi nay sẽ vì Ngài đi tìm thức ăn sơn hào hải vị thơm ngon khó tìm của nhà Vua.

Lúc ấy, chim chúa lại nói: Lành thay! Này thiện hữu, nếu người có năng lực vì ta làm việc này, ta sẽ đền đáp công đức ấy. Lúc bấy giờ chim nọ từ chỗ của chim chúa bay vọt lên hư không, thẳng đến cung Vua Phạm Đức, đậu trên đọt cây, cách nhà bếp chẳng bao xa để quán sát thức ăn của Vua nơi nhà bếp. Chim thấy thức ăn nhà Vua nấu xong, có một phụ nữ chuẩn bị đầy đủ các thứ sơn hào hải vị.

Đến giờ ăn, nàng mang sớt vào đồ bằng bạc đầy ắp thức ăn uống, sắp dâng lên nhà Vua. Ngay lúc ấy chim nọ từ trên cây cao hạ cánh đậu trên đầu người phụ nữ, dùng mỏ mổ vào mũi cô ta. Nàng này lỗ mũi bị chim mổ đau nhức nên lỡ tay làm đồ ăn rơi xuống đất.

Khi ấy chim vội đớp lấy thức ăn bay về cho chim chúa. Chim chúa được thức ăn liền đem cho chim vợ Thiện Nữ. Chim vợ được thức ăn liền ăn no nê, thân thể an ổn, sau đó sinh nở. Chim nọ vào những ngày khác, thường lui tới cung Vua đoạt lấy thức ăn dâng cho chim chúa.

Khi ấy, Vua Phạm Đức thường thấy xảy ra việc này nên mới suy nghĩ: Quái lạ thay! Tại sao con chim này thường đến đây làm ô uế thức ăn của ta?

Lại dùng móng mỏ làm phụ nữ ta bị thương!

Nhà Vua không chịu nổi việc này, liền kêu thợ bẫy chim đến bảo: Các khanh mau mau đi đến đó, bắt sống con chim này cho ta.

Các thợ bẫy chim nghe lời Vua phán, liền tâu: Y như lời Đại Vương dạy, chúng tôi không dám sai trái. Các thợ bẫy chim đến nơi, bắt sống được con chim này đem giao cho Vua Phạm Đức.

Vua Phạm Đức hỏi chim: Vì cớ gì ngươi thường đến đây làm ô uế thức ăn của ta?

Lại dùng mỏ móng làm thương tổn phụ nữ của ta?

Chim đáp: Lành thay! Tâu Đại Vương, xin nhà Vua nghe tôi kể việc ấy, Ngài sẽ bằng lòng.

Khi ấy Vua Phạm Đức hoan hỷ, vì lại nghĩ thế này: Việc này thật hy hữu.

Tại sao loài chim lại biết nói tiếng người?

Nghĩ như vậy rồi, nhà Vua bảo chim: Hay thay! Hay thay, người nên vì ta nói ý nghĩa việc này để ta được hoan hỷ.

Bấy giờ chim dùng kệ đáp lời Vua Phạm Đức:

Vua phải biết, thành Ba La Nại

Có chim chúa thường ngày ở đó

Cùng chim bạn tám vạn bủa vây

Đều tuân thủ lệnh của Vua chim.

Vợ chim chúa có điều mơ ước

Hướng đến chồng bày tỏ khúc lòng

Nàng ước ao cao lương mỹ vị

Đúng là thức ăn của Đại Vương.

Vì vậy tôi thường bay đến đây

Đoạt thức ăn mỹ vị của Ngài

Nay vì phục vụ chúa chim tôi

Đến nỗi bị Đại Vương bắt giữ.

Lành thay!

Cầu mong Đại Thánh Vương

Mở lòng từ bi thả tôi ra

Bởi vì tôi phụng sự vợ Vua chim

Thường cướp lấy thức ăn của Ngài.

Nhớ từ nhỏ cho đến bây giờ

Chưa bao giờ làm điều như vậy

Xin được lệnh Đại Vương dung thứ

Mãi về sau không dám tái phạm.

Khi Vua Phạm Đức nghe chim nói như vậy, trong lòng hoan hỷ nói: Việc này thật hy hữu! Loài người đối với chủ nhân còn không có tâm ái trọng như loài chim này vậy.

Nói như vậy rồi, Vua Phạm Đức nói kệ:

Nếu có những Đại Thần như vậy

Biết đáp ân nặng lộc phong hầu

Giống như chim nọ thật dũng kiện

Vì chủ tìm mồi chẳng tiếc thân.

Vua Phạm Đức nói kệ rồi, lại bảo chim: Lành thay! Này chú chim, từ nay trở đi ngươi hãy thường tới đây lấy thức ăn mỹ vị. Nếu có người nào ngăn đón không cho, ngươi hãy đến báo ta biết, ta sẽ cho ngươi phần ăn của ta để ngươi đem về.

Đức Phật nói với các Tỳ Kheo: Các thầy phải biết, con chim chúa thuở ấy là thân ta ngày nay. Chim đi ăn cắp thức ăn thuở ấy là Ưu Đà Di ngày nay. Còn Vua Phạm Đức thuở ấy tức là Vua Thâu Đầu Đàn ngày nay.

Thuở ấy, Ưu Đà Di làm cho nhà Vua hoan hỷ và cũng vì ta đi tìm thức ăn. Ngày nay cũng lại như vậy, Ưu Đà Di làm cho Vua Thâu Đầu Đàn sinh tâm hoan hỷ và lại vì ta mang thức về.

Sau đó, Vua Thâu Đầu Đàn mới ra lệnh rung chuông, rung linh thông báo tất cả dân chúng trong thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô không được một ai đến thăm Thái Tử trước. Ai muốn đi thăm Thái Tử sẽ cùng đi theo Vua đến đó yết kiến.

Bấy giờ, Vua Thâu Đầu Đàn đem tất cả những người trong cung của mình, những người trong cung của Thái Tử Tất Đạt Đa, ngoài ra còn đem theo các quyến thuộc khác, là Đồng Tử dòng họ Thích và các thuộc hạ, lại đem bốn binh chủng, trăm quan Đại Thần, các tướng soái hộ vệ và các Cư Sĩ, trưởng giả kỳ cựu nơi các xóm làng, thành ấp.

Để thể hiện oai thế của nhà Vua và hiển bày tinh thần đức độ của mình nên nhà Vua đem theo các Đại Thần, thân tộc, binh chủng hộ vệ chung quanh như vậy.

Bấy giờ tôn tộc của họ Thích có chín vạn chín ngàn người, cùng dân chúng trong thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô muốn đến chiêm ngưỡng Như Lai.

Đức Như Lai trông thấy Đại Vương Thâu Đầu Đàn cùng với quần chúng hàng ngũ chỉnh tề đang hướng đến, nên suy nghĩ:

Nếu ta thấy Phụ Vương mà không đứng dậy nghênh tiếp thì người ta sẽ cho rằng: Người này không đủ Đức Hạnh quả báo làm người.

Tại sao thấy cha mà không đứng dậy nghênh tiếp?

Nếu ta thấy Phụ Vương và đại chúng mà đứng dậy nghênh tiếp thì họ sẽ bị vô lượng tội lớn. Nếu ta giữ tư thế ngồi yên như cũ thì họ đối với ta không sinh tâm cung kính. Như Lai suy xét ba trường hợp như trên, thấy mỗi trường hợp đều có khuyết điểm như vậy.

Như Lai suy nghĩ ý nghĩa của ba trường hợp như vậy rồi, Ngài từ chỗ ngồi dùng sức thần thông bay vọt lên hư không, ở trong hư không, Ngài hóa hiện các thứ thần thông, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngủ, hoặc tỏa khói, hoặc phóng lửa ngọn, hoặc ẩn, hoặc hiện.

Các vị thần ở thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô như thần bảo vệ thành, thần giữ cổng hiện ra trước mặt Vua Thâu Đầu Đàn rồi đằng vân lên hư không, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng lui về một bên, nói kệ thưa Thế Tôn:

Hôm đêm Thái Tử đi xuất gia

Các thần Dạ Xoa hộ mở cửa

Vua Tỳ Sa Môn dẫn dường đi

Thế Tôn là bậc công đức lớn.

Khi ấy Thái Tử ra khỏi cửa

Phát đại thệ nguyện như thế này:

Nếu chẳng thu phục được ma quân

Thành này, ta không vào trở lại.

Ngày nay nguyện ấy đã thành công

Thế Tôn thu phục lũ ma quân

Chứng quả Bồ Đề Vô Thượng Đạo

Nguyện xưa nay đã được viên thành.

Phật vì làm phước hiện ra đời

Đã chứng Bồ Đề Vô Thượng đạo

Do vì thương mến hàng thân tộc

Vì vậy ngày nay lại vào thành.

Khi ấy Vua Thâu Đầu Đàn từ xa trông thấy Thế Tôn dùng sức thần thông bay lên hư không, thể hiện các thứ thần thông biến hóa, nên suy nghĩ: Ta nhớ thuở trước Thái Tử Tất Đạt Đa xả tục xuất gia, mà nay đã thành bậc Đại Tiên có nhiều oai đức, có đại thần thông. Vua Thâu Đầu Đàn suy nghĩ như vậy rồi liền xuống xe đi bộ đến chỗ Phật. Khi nhà Vua từ từ tiến gần đến chỗ Phật ngồi thì Đức Phật cũng từ hư không từ từ hạ xuống.

Khi Vua Thâu Đầu Đàn đến sát chỗ ngồi của Phật, thì ngay lúc đó Đức Phật cũng từ hư không đã đến chỗ ngồi của mình. Vua Thâu Đầu Đàn thấy trên đầu Phật không có mão thiên quan, lại cạo bỏ râu tóc, thân đắp Ca Sa, vì lòng thương con nên nhà Vua ngã xỉu. Trong giây lát mới tỉnh dậy, Vua nằm lăn trên đất buồn khóc, nước mắt đầm đìa.

Lúc ấy chín vạn chín ngàn người trong hoàng gia cùng với tất cả dân chúng trong thành cũng như ngoài thành đều ngã xỉu trên đất, buồn khóc lăn lộn, nước mắt ràn rụa cả mặt mày, buồn rầu áo não, đau khổ vô cùng.

Khi ấy đại chúng nói kệ:

Đại Vương dẫn chúng đến bên Phật

Phụ Vương thấy Phật chưa thăm hỏi

Vua muốn gọi con nhưng e ngại

Muốn gọi Tỳ Kheo cũng ngượng ngùng.

Vua thấy Thái Tử dạng Sa Môn

Tự ở ngôi Vua thấy hổ thẹn

Than ngắn thở dài lòng tức giận

Xỉu ngã trên đất, kể đủ điều.

Như Lai im lìm ngồi thiền định

Vua thấy như vậy vẫn ưu sầu

Giống người khát nước từ xa đến

Đã thấy nước rồi, vẫn chịu khát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nghĩ: Hoàng gia họ Thích rất tự thị cống cao ngã mạn. Nếu đặt đầu xuống đất để lễ ta thì họ chẳng muốn làm. Ngài nghĩ như vậy, liền bay lên hư không cách đất khoảng một trượng.

Ngài lại nghĩ: Nay ta ở cách cất chừng ấy, để họ đủ khom người cúi đầu làm lễ.

Có kệ:

Phật biết Vua tôi lòng ngã mạn

Bay lên hư không cao một trượng

Thương mến tất cả người đến đây

Vì vậy Ngài trú nơi hư không.

Khi ấy Vua Thâu Đầu Đàn từ dưới đất ngồi dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và nói kệ:

Ta lạy ba lần Đấng chân như

Lễ Phật khi vừa mới đản sinh

Khỉ xưa trong cung tướng sư đoán

Khi ngồi gốc cây che mát thân

Nay thấy thể hiện việc hơn người

Mặt mày tươi sáng như hoa nở

Khiến thân tâm ta rất vui mừng

Thế nên ta nay lễ ba lạy.

Bấy giờ, Vua Thâu Đầu Đàn đảnh lễ dưới chân Phật, rồi sau đó tuần tự quyến thuộc hai cung đều lễ Phật. Kế đến quyến thuộc bên ngoại cũng lễ dưới chân Phật. Các Đồng Tử dòng họ Thích cũng lễ dưới chân Phật. Các tướng sĩ hộ vệ và trăm quan Đại Thần cũng tuần tự lễ Phật.

Những Cư Sĩ dòng đại tộc cũng đảnh lễ dưới chân Phật. Tuần tự những vị kỳ túc đại phú trưởng giả cũng lễ dưới chân Phật.

Đức Thế Tôn có những giáo pháp sâu xa vi diệu nhưng e ngại đại chúng chưa sinh tâm hoan hỷ, khát ngưỡng, chưa sinh ý tưởng hy hữu đặc biệt nên Như Lai chưa nói pháp này.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn đại chúng hiện tiền sinh tâm hoan hỷ kính tin nên Ngài vận dụng thần thông bay lên hư không, trụ tại phương Đông cao khoảng một cây Đa La, rồi Ngài biến hiện các thần thông:

Một thân hiện ra nhiều thân, hoặc nhiều thân hợp thành một thân, đi lại chân không đụng đất, từ dưới đi lên, từ trên đi xuống, đi xuyên qua núi, vách đá không bị chướng ngại, vào trong đất như vào trong nước, đi trên mặt nước như trên mặt đất, ngồi kiết già trên hư không an nhiên bất động.

Hoặc đi kinh hành giống như chim bay, hoặc trên thân bốc khói, dưới thân phun nước. Hoặc thân như đổng lửa lớn, như vầng nhật nguyệt có oai đức lớn, có thần thông lớn, oai đức lẫy lừng quang minh chiếu khắp. Hoặc có khi dùng tay nắm bắt Mặt Trời, Mặt Trăng, thân hình cao lớn đụng đến cõi Phạm thiên.

Sau khi hiện những thần thông như trên, Ngài lại hiện cùng một lúc hai thần thông đối nhau, nghĩa là nửa thân phía trên bốc khói, nửa thân phía dưới phun lửa.

Hoặc nửa thân phía dưới bốc khói, nửa thân phía trên phun lửa.

Hoặc hông bên trái phun lửa, hông bên phải tỏa khói.

Hoặc hông bên phải phun lửa, hông bên trái tỏa khói.

Hoặc lại nửa thân phía trên bốc khói, nửa thân phía dưới phun nước lạnh trong mát.

Hoặc nửa thân phía trên phun nước lạnh trong mát, nửa thân phía dưới bốc khói.

Hoặc hông bên trái bốc khói, hông bên phải phun nước lạnh trong mát.

Hoặc trong chốc lát hông bên phải bốc khói, hông bên trái phun nước lạnh trong mát.

Hoặc nửa thân phía dưới bốc lửa nóng, nửa thân phía trên phun nước mát lạnh.

Hoặc nửa thân phía trên bốc lửa nóng, nửa thân phía dưới phun nước trong mát lạnh.

Hông bên trái phun lửa, hông phải phun nước mát.

Hoặc hông bên trái bốc lửa, hông bên phải phun nước trong mát lạnh.

Hoặc hông bên trái phun nước mát lạnh, hông bên phải bốc ra lửa đỏ.

Hoặc toàn thân bốc lửa, khoảng giữa hai con mắt phun nước mát lạnh.

Hoặc khoảng giữa hai con mắt bốc lửa đỏ, toàn thân phun nước mát lạnh.

Bấy giờ Đức Như Lai để hiện nửa thân phía dưới, ẩn mất nửa thân phía trên mà thuyết pháp.

Rồi để hiện nửa thân phía trên, ẩn mất nửa thân phía dưới mà thuyết pháp.

Như Lai nhập vào định Hỏa quang, trên mỗi lỗ chân lông phát ra các đạo hào quang.

Có loại hào quang màu xanh, có loại hào quang màu vàng, có loại hào quang màu đỏ, có loại hào quang màu trắng, có loại hào quang màu cỏ biếc, có loại hào quang màu pha lê.

Như Lai có khi ở trên hư không, cách mặt đất chừng một cây Đa La mà hiện thần thông, có khi cách đất khoảng hai cây Đa La, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc bảy cây Đa La, ở trong hư không mà hiện thần thông.

Những thần thông hiện ra là một thân hiện ra nhiều thân hào quang màu pha lê. Bấy giờ Như Lai ẩn thân nơi phương Nam, xuất hiện nơi phương Tây, cao cách mặt đất khoảng một cây Đa La, biến hóa đủ các thứ thần thông.

Hoặc Thế Tôn ẩn thân ở phương Tây, hiện nơi phương Bắc, cao cách đất khoảng một cây Đa La, rồi trụ trong hư không biến hóa đủ các loại thần thông.

Những thần thông đó như: một thân phân thành nhiều thân phóng hào quang màu pha lê. Cho đến mỗi phương khác cũng như vậy, đều trụ trong hư không cao cách mặt đất khoảng một cây Đa La bảy cây Đa La, biến hóa đủ các loại thần thông. Những thần thông đó như: một thân phân ra nhiều thân phóng hào quang màu pha lê.

Bấy giờ, đại chúng thấy Đức Thế Tôn thể hiện những thần thông như vậy, liền sinh tâm hoan hỷ, tín kính Đức Phật, cho là việc chưa từng có.

Khi thấy đại chúng đã hoan hỷ, tín kính, cho là việc chưa từng có rồi, Đức Thế Tôn mới từ hư không hạ xuống, trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, rồi vì đại chúng, tuần tự giảng các pháp.

Ngài nói: Chúng sinh từ lâu ở trong phiền não, khiến cho người nghe xa lìa phiền não. Do vậy, Ngài khuyên tu các pháp bố thí, giữ giới, tinh tấn, nhẫn nhục sẽ được sinh vào thiện xứ. Ngài lại dạy xa lìa dục lậu, hữu lậu để được thoát ly phiền não.

Ngài cũng ca ngợi công đức xuất gia. Ngài tán thán các pháp giải thoát như vậy. Khi Đức Như Lai thuyết pháp, Ngài biết đại chúng vui mừng hớn hở, nhu hòa và tâm không phóng dật.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn cũng thuyết các pháp truyền thừa của Chư Phật như khổ, tập, diệt, đạo. 

Khi Đức Thế Tôn vì đại chúng theo phương tiện thị hiện thần thông, tuyên dương chánh pháp, thì có vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh ngay tại chỗ ngồi xa lìa trần cấu, không còn phiền não, đoạn các kết sử, được pháp nhãn thanh tịnh, đốì với pháp tập khởi đều diệt các tướng, chứng được thật trí.

Ví như y phục sạch, không chút vết nhơ, có thể tùy ý nhuộm màu sắc gì thì thành màu sắc đó. Đức Phật nói những pháp như vậy rồi, trong đại chúng có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các chúng sinh, ngay tại chỗ ngồi xa lìa trần câu, không còn phiền não, đoạn các kết sử, được pháp nhãn thanh tịnh tịch diệt tất cả tướng, chứng trí như thật.

Đại chúng này tự thấy các pháp, đã được các pháp, đã chứng các pháp, đã nhập vào các pháp, vượt qua các nghi, các hoặc đã diệt, không còn tâm nghi, đã được vô úy, tất cả nhân duyên sinh ra thân kiến đều diệt sạch. Họ biết như vậy rồi quy y Phật, pháp, Tăng, thọ trì năm giới cấm, làm người cư sĩ.

Vua Thâu Đầu Đàn vì lưới phiền não thương con bao phủ nên không chứng quả, ngồi trước Thế Tôn, buồn thương than thở, nghẹn ngào ấm ức mà nói kệ:

Mũ bằng bảy báu xưa con đội

Trang nghiêm đẹp đẽ bỏ nơi nào?

Minh châu trong tóc lạc đi đâu

Đầu trần hủy thể không oai đức?

Xưa mặc Ca Thi áo tuyệt vời

Nay con cũng bỏ nó ở đâu?

Y phục vứt bỏ thô xấu này

Con yêu của ta sao lại mặc?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Trung thần danh tiếng của Đại Vương

Ta gởi thiên quan cho bạn ấy

Vì muốn trừ bỏ tâm ngã mạn

Lại muốn thành tựu pháp Cam Lộ.

Chế ra Ca Sa y hoại sắc

Do vậy ta bỏ áo Ca Thi

Thân này lại mặc y hoại sắc

Chứng quả vô thượng diệu Bồ Đề.

Đại Vương Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ bạch Như Lai:

Ta xưa tại cung cầu trăm nguyện

Nguyện được sinh con làm Chuyển Luân

Nay thấy cạo đầu, tay bưng bát

Con nói với ta được hơn gì?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Luân Vương được cả vẫn không chán

Tuy được sống lâu không tự tại

Tâm ta tự tại không biên giới

Muốn con Luân Vương thật không hay.

Đại Vương Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ bạch Thế Tôn:

Giày da bảy báu xưa con mang

Nệm êm chăn mịn đủ loại hàng

Cung điện lầu gác nơi an ổn

Trên đầu được che tàng lọng trắng

Chân trắng mềm mại như hoa sen

Làm sao chịu nổi gai, cát sỏi.

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Ta đã chứng Bậc Nhất Thiết Trí

Không nhiễm các pháp, như hoa sen

Vượt qua các cõi không tham đắm

Như vậy, khổ ấy ta chẳng còn.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ bạch Phật:

Xưa ở cung điện dùng Chiên Đàn

Với các hương thơm mát như trăng

Tùy thời thoa ướp trên thân thể.

Thoa xong thân thể thấy lâng lâng.

Ngày nay hạ đến, bị nóng bức

Rừng vắng đi bộ khổ dường nào

Xưa ở nội cung nhạc êm dịu

Nay không thể nữ vui với ai?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Tôi có ao pháp nước trong mát

Người trí hân hoan, chỗ an lạc

Ao báu công đức rửa sạch thân

Không bị đắm chìm, lên bờ giác.

Vua Thâu Đầu Đàn dùng kệ nói:

Xưa ở trong cung mặc Ca Thi

Thân xông Chiêm Bặc với hương sen

Nhiều lớp hoa mềm lót trong áo

Ngự trong cung điện thật oai nghiêm.

Nay mặc áo gai vải vứt bỏ

Màu sắc tùy xứ nhuộm vỏ cây

Chỉ để che thân thật xấu hổ

Bậc Đại Trượng Phu sao chẳng chán?

Đức Thế Tôn lại dùng kệ trả lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Y phục, đồ nằm, thức ăn uống

Xưa ta tham đắm các thứ này

Thân hình kiều diễm sắc đáng yêu

Ta nay chánh niệm nên không dùng.

Vua Thâu Đầu Đàn dùng kệ nói:

Xưa ở trong cung vật bảy báu

Đồ dùng, bàn ăn nạm bạc vàng

Sơn hào hải vị thơm ngon ngọt

Vương tử tùy ý mặc sức dùng.

Nay thức ăn dở, lại hôi ê

Nhạt nhẽo chẳng ngon sao ăn được?

Tại sao chẳng chê thức ăn này

Chẳng sinh ý giận vật hôi thối?

Đức Phật lại dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Tương truyền quá khứ đến ngày nay

Cùng đời vị lai, các Thánh Giả

Tuy ăn đồ dở, vị chẳng ngon

Thương xót thế gian nên không chê.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói:

Khi xưa người ở trong điện ta

Nằm ngồi trên chỗ thật êm dịu

Vượt trội thế gian không ai sánh

Tựa gối vừa ý, chẳng chê bai.

Nay nằm trên đất, đồ nhám nhúa

Chỉ trải cỏ rác với lá cây

Tại sao nằm ngủ mà không chê

Thân thể mềm mại chẳng đau sao?

Thế Tôn dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Ta đã chứng được trí tự tại

Thoát khỏi tất cả các khổ đau

Đã nhổ các gai phiền não khổ

Thương mến người đời nên chẳng chê.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói với Phật:

Thuở xưa người ở nhà vừa ý

Trên sàn rải các loài hoa đẹp

Phòng kín không gió, đèn sáng choang

Cho đến lầu gác và cửa sổ

Vòng hoa anh lạc trang điểm thân

Thê thiếp đoan trang như ngọc nữ

Nói năng dịu ngọt theo hầu hạ

Kính ngưỡng chẳng trái lệnh phu quân.

Thế Tôn lại dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Phụ Vương, ta có pháp tân học

Phạm hạnh vi diệu trong Cõi Trời

Do ta chứng được tâm tự tại

Những gì ta muốn đều thành tựu.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói:

Tiếng trống, không hầu cùng đàn sắt

Ca ngâm tuyệt diệu làm người thức

Giống như Đế Thích tại Thiên Cung

Người ở trong cung xưa cũng vậy.

Đức Phật lại dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Lời kinh, liếng kệ âm vi diệu

Như ý giải thoái giác ngộ ta

Ta có thiện hữu hạnh thanh tịnh

Đại Vương, ta sống giữa chúng này.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói:

Thống lãnh biên cương cùng sông núi

Hưởng dục đủ cả ngàn người con

Bảy báu tuyệt vời sao chẳng tưởng

Tại sao tu lấy hạnh Sa Môn?

Đức Phật dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Tam muội trí tuệ đất của ta

Ngàn pháp thiền định là con ta

Bảy báu giác chi là thất bảo

Đại Vương, pháp ấy ta chứng đắc.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói:

Xưa con đi xe với tuấn mã

Xe ấy trang hoàng bằng các báu

Tàng lọng như tuyết để che thân

Quạt lụa trắng tinh, cán bằng ngọc.

Đức Phật lại dùng kệ đáp lời Vua Thâu Đầu Đàn:

Tôi lấy chánh cần làm ngựa giỏi

Lấy tuệ, tư, tàm quý làm xe

Vận chuyển tinh tấn, dũng mãnh tu

Ta cỡi xe này vào vô úy.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói:

Người xưa tại cung cỡi Kiền Trắc

Bạch mã trắng tinh hơn tất cả

Yên cương trang trí bằng bảy báu

Cỡi ngựa này đi theo ý muốn.

Đức Phật dùng kệ đáp lời Đại Vương:

Bao nhiêu loài ngựa trong Thế Giới

Vô số thế gian người cỡi nó

Chúng nó đều bị luật vô thường

Quán xong, tùy ý cỡi thần thông.

Vua Thâu Đầu Đàn lại dùng kệ nói:

Khi xưa người ở trong cung điện

Lầu gác khác nào cảnh Chư Thiên

Cung tên, giáo mác cầm hộ vệ

Thân mặc chiến bào thật oai nghi.

Nay ở trong rừng không ai hộ

Dạ Xoa, La Sát thật hãi hùng

Thú rừng gầm hét trong đêm tối

Làm sao ở mà không sợ hãi.

Đức Phật lại dùng kệ đáp lời nhà Vua:

Bao nhiêu Dạ Xoa, Tỳ Xá Giá

Những loại thú dữ đáng sợ kia

Trong rừng đêm tối luôn đi lại

Không thể động đến một lông ta

Không sợ tiếng gầm, dù sư tử

Như gió không thể bị lưới ngăn

Cũng như hoa sen không dính nước

Ta ở thế gian nào ô trược.

Bấy giờ vô lượng đại chúng: Trưởng Lão Mục Kiền Liên, Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp, Trưởng Lão Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Ma Ha Câu Hy La, Thôn Đà La, Ly Bà Đa ngồi hai bên Đức Phật.

Các Đại Đức Trưởng Lão này do tu khổ hạnh nên thân thể không tươi sáng, ốm gầy uể oải, sắc diện kém tươi, khí lực sút giảm, chỉ còn da bọc xương.

Lúc ấy, Vua Thâu Đầu Đàn bạch Đức Phật: Thưa Thế Tôn, những vị ngồi bên phải Thế Tôn, họ từ đâu theo Thế Tôn xuất gia?

Lúc ấy Đức Phật đưa cánh tay màu vàng chỉ từng vị Tỳ Kheo và nêu danh tánh giới thiệu cho Vua biết: Đây là Xá Lợi Phất, đây là Ma Ha Ca Diếp, đây là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, đây là Na Đề Ca Diếp, đây là Già Da Ca Diếp, đây là Ưu Ba Tư Na, đây là Ly Bà Đa. Những vị đó đều thuộc dòng họ đại quý tộc Bà La Môn ở nước Ma Già Đà.

Vua Thâu Đầu Đàn lại hỏi: Hiện giờ những vị ngồi bên trái là ai?

Từ đâu đến theo Thế Tôn xuất gia?

Đức Phật bảo Vua: Đây là Ma Ha Mục Kiền Liên, đây là Ma Ha Ca Chiên Diên, đây là Ma Ha Thuần Đà. Những vị ấy cũng thuộc dòng đại quý tộc thuộc nước Ma Già Đà.

Khi Vua Thâu Đầu Đàn nghe Đức Phật Giới thiệu như vậy, trong lòng buồn bã chẳng vui, lại suy nghĩ: Con ta tuy thật là Đồng Tử thuộc dòng đại quý tộc Sát Đế Lợi, hình dung khôi ngô giống như tượng vàng, người ta trông thấy không chán. Nhưng đã là Đồng Tử dòng đại tộc Sát Đế Lợi mà để hàng Bà La Môn hầu hạ hai bên là điều phi lý.

Đã là Đồng Tử dòng Sát Đế Lợi cao quý thì lẽ ra phải có hàng Sát Đế Lợi hầu hạ chung quanh mới phải lẽ. Nghĩ như thế rồi, vì muốn việc này được thành tựu, nhà Vua liền rời chỗ ngồi, đứng dậy trở về Hoàng Cung.

***