Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BỔN HẠNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thích Bảo Vân, Đời Tống
 

PHẨM BA MƯƠI

PHẨM THÂN VÔ VI
 

Khi ấy từ không trung

Cung báu trời chiếu sáng

Dùng xe ngàn voi chở

Lơ lửng ở trên Trời

Lòng kính chăm nhìn Phật

Thân hình xả thọ nằm

Cảm động mà buồn than

Liền nói lời giã từ

Rằng: Ở nơi sinh tử

Tất cả đều vô thường

Mới sinh ra hưng thịnh

Rồi suy tổn diệt vong

Quanh quẩn tìm vui sướng

Các nỗi khổ liền sinh

Đều diệt hết các khổ

Vui vô vi bậc nhất

Các thứ củi sinh tử

Đốt cháy không còn dư.

Lửa tuệ, khói danh đức

Cùng khắp Trời, thế gian

Nước vô thường chợt đến

Diệt ánh sáng của Phật

Giống như lửa đồng mạnh

Chợt gặp trận mưa lớn.

Lại có Đấng Thiên Tiên

Tâm mẫn thiện điều lương

Cư trú cung Tịnh Cư

Thanh tịnh dứt các dục

Nhìn Phật rất ái kính

Gào khóc như mây mưa

Lòng nặng như Tu Di

Liền nói lời như vậy:

Thế gian không hề có

Người sinh mà không tử

Xưa nay chưa từng có

Người sinh mãi còn hoài

Thượng, trung, hạ thông suốt

Nhất định ai cũng hay

Ngài còn không được khỏi

Thì ai được sống hoài.

Ngài dẫn đường cõi thế

Dứt tà, bày đường chân

Mắt tuệ là bậc nhất

Nhìn đời khắp dưới trên

Đời tuệ diệt như vậy

Sẽ lại trụ đường tà

Giống như mù không mắt

Lạc mất đường bằng phẳng.

Đệ tử có mắt Trời

Tên là A Na Luật

Lòng yêu ghét đã hết

Dứt sinh tử, trần lao

Thấy Phật đã diệt độ

Thế gian sẽ tối tăm

Các căn đều vắng lặng

Liền khen lời như vậy:

Ở trong đại sinh tử

Tuệ nghĩa không được thông

Thế gian như hơi sương

Giây lát không còn hiện

Chày vô thường cứng chắc

Đâp Tu Di báu Phật

Bỗng nhiên đổ nát hết

Nay rơi xuống mặt đất.

Thế gian sao khinh bạc

Không một chỗ đáng nương

Lao xao không vững chắc

Xao động hợp lại tan

Pháp khắp đời diệt vong

Không tôi ta, như mộng.

Phật Sư Tử hàng phục

Voi trần lao tự ngã

Chưa đuổi kịp dấu đạo

Sao không sợ việc ấy?

Xem đời không chỗ nương

Như chùm bọt sương mai.

Phật Hiệu Thiên Nhân Sư

Trụ lớn bằng Kim Cang

Bỗng nhiên ngã xuống đất

Sức lực ở tại đâu?

Sáu giống sinh năm nhánh

Một mầm năm thứ quả

Đều tưới ba cây này

Ý nhọc bền khó chặt,

Voi sức mạnh của Phật

Bỗng hủy cây trần lao

Tan nát không còn nữa

Sau đó tự đổ nhào.

Thiên Mục cầm Kim Cang

Vua Trời mong Trời mưa

Thiết lập ra chánh pháp

Dứt khổ ấy mát mẻ

Đức xưng càng rộng lớn

Trùm khắp cả thế gian:

Thầy các Bậc Thánh Hiền

Vắng lặng mà diệt ẩn

Đức danh vang cùng khắp

Thấm nhuần pháp nhiệm mầu.

Giống như mưa mùa thu

Nước sông về tràn đầy

Thiên Sư thương cứu giúp

Tự ý Vua về theo

Trao cho đạo vô vi

Ẩn thân như Trời lặn

Nổi mây giáng mưa ấy

Thu đông mưa tuyết sương

Cháy hừng hực lửa mạnh

Sao còn bị diệt vong?

Như tế xong lửa tắt

Nay lửa thầy các Trời

Diệt tan lặng không sáng

Thế gian còn tăm tối

Dứt hy vọng giải thoát

Trái bổn nguyện mất vui

Đức lành tốt lưu truyền

Vang khắp cả mười phương.

Mang bốn tâm đại từ

Thương chúng như con đỏ

Ai cũng được lành ấy

Vì sao vắng lặng diệt?

Được đạo mầu không đắm

Sở sinh của các Phật

Các pháp lành vô ngại

Vắng lặng mà tự giác

Dùng thân túc nhẹ nâng

Biết thân là khổ nàn

Do vậy phải mau chóng

Xả thân an vô vi

Trừ hết tâm u tối,

Như ánh sáng mặt Trời

Dứt bỏ tâm dâm cấu

Như mưa bụi đất trôi

Không còn gặp các khổ

Không bị phiền não bức.

Đã độ rộng vô biên

Biển sâu không đáy bờ

Xuất hiện ra nơi đời

Dứt các khổ độc hại

Xót thương cõi thế gian

Mong cầu được vắng lặng.

Các tướng đẹp rực rỡ

Lặng như Vua Phạm Thiên

Trí tuệ lớn đầy đủ

Làm Thầy của Trời, Người

Dùng lành chuyển chúng sinh

Dứt trần lao lìa ác,

Ngày đêm thêm các lành

Như mặt trăng mới mọc

Thường nuôi lớn các lành

Đức xưng rộng khắp nơi

Khi tại gia đã hiểu

Huống gì xuất gia rồi.

Thuở xa xưa đã thệ

Sẽ chiến đấu trần lao

Xót thương kẻ nghèo hèn

Thệ nguyện đã tràn đầy

Phật dùng tâm bình đẳng

Ăn không từ vị dở

Cũng không hề tham đắm

Đối với các vị ngon.

Tuệ thí khó xả bỏ

Người không thể xả bỏ

Không nhận lấy của người

Cũng không cầu lợi ích

Tướng tốt đại danh xưng

Tự nhiên như tiếng vang

Rộng chọn các ý lành

Quyết định đối đức lành

Nên hiện tướng mạo đẹp.

Người thấy dứt ba cấu

Nói ra thành pháp luật

Nuôi lớn lành chúng sinh

Dùng tướng sáng nhịn nhục

Kẻ oán là trần lao

Chứa công đức vô lượng

Cũng không khỏi vô thường.

Nhiều đời chứa công đức

Được báo không hạn lượng

Quyết định được chánh đạo

Như củi hết lửa tắt

Chỉ chúng sinh đường lành

Chặt hết rừng trần lao

Chế ngự được tất cả

Sự trói buộc sinh tử.

Bỏ tám thắng, năm đường.

Nhìn thấy rõ ba đường

Chặt ba xét rõ ba

Nhân được ba mắt tịnh,

Ẩn một biết rõ một

Đợi một đến bảy lớp

Tan hết không còn dư

Là thệ đối vô ngại

Đem cam lộ cho đời

Lời nói dứt giận dữ

Dùng lành thấm chúng sinh

Người khó ngộ ở đời.

Thường trồng các gốc lành

Không đem ác cho người

Dựng cao cờ chánh pháp

Đối tất cả thế gian,

Vườn Nai chuyển pháp luân

Khắp thế gian vui mừng

Thành tựu các giải thoát

Dứt bỏ các tự ái.

Thấy điều chưa từng thấy

Khắp hợp với thanh tịnh

Biết những việc khó biết

Các pháp chưa từng biết,

Dạy đời là vô thường

Nơi sinh đến có khổ

Dạy đời là vô ngã

Không mê hoặc dài kia,

Dựng cờ phướn chánh pháp

Xô ngã núi cống cao

Giống như cột bảy báu

Đổ ngã khi cúng tế.

Mặt hủy lòng không hận.

Không vui với lời khen

Chán sinh Thiên Thọ Phước

Phương tiện cầu bất sinh

Tự vượt biển sinh tử

Lại độ thoát tất cả

Tự dùng tuệ để giác

Lại giác ngộ chúng sinh.

Như mây nhuần khi giác

Như hoa lá núi rừng

Kiến giải như nhật xuất

Rồi trao cho chánh kiến

Tuy sinh ở thế gian

Nhưng không nhiễm việc đời

Từng trải đường hiểm đời

Nhưng không cùng chung đường.

Tâm không hề phạm lỗi

Được đạo lành còn diệt

Khắp đời gặp gian nan

Không chỗ nương, đáng thương

Ngu si che mắt họ

Không hề được đoái hoài,

Không nghĩ lập phương tiện

Cầu ra khỏi sinh tử

Khổ sinh, già, bệnh, chết

Ép bức đời không khỏi

Chỉ Phật cứu được khổ

Trao cho uống cam lộ.

Thuở xưa binh Thiên Ma

Không thể thắng Thiên Sư

Tự nhiên sức vô thường

Vô thường chợt thắng sư!

Tai Thế Tôn nghe được

Tiếng Tam Thiên Thế Giới

Sức thần túc thăng giáng

Cho đến Trời Phạm cư,

Biết tâm niệm chúng sinh

Cho đến ngục Vô Trạch

Các sinh tử khởi diệt

Đều xét đế thấy rõ.

Thiên Sư từ mới sinh

Xoay vần khắp các nẻo

Nhớ rõ như mắt thấy

Tận cội nguồn tử sinh

Đầy đủ tuệ sáu thông

Có đủ giác quyết định

Nay đều vứt bỏ hết

Bỏ thân còn thọ hành.

Ái đời theo sinh tử

Ai nói pháp khiến dứt?

Người đời ngu không trí

Ai sẽ đem tuệ giác?

Như xe không người lái

Thuyền bè không kẻ chèo

Bệnh nặng rời Thầy thuốc

Làm sao tự giữ gìn?

Như lời không thành tín

Không giác ý cầu trí

Vương giả mất nghi vệ

Làm lành không nhẫn nhục

Đã lìa bốn việc ấy

Công kia không hiển bày.

Nay Phật bỏ cõi thế

Không giúp việc khó thành

Như tháng năm, tháng sáu

Trời trong, không gió mây

Nắng quá thiêu rụi cỏ

Cho đến các côn trùng.

Những chúng sinh đáng độ

Nay sẽ đều gặp nạn

Thế Tôn xả thọ mạng

Sao mà đau khổ quá!

Thời, các Trời buồn bã

Thương xót nói lời này

Dâm, nộ, si giảm bớt

Khen Thầy dứt sinh tử

Đệ tử chưa giải thoát

Thì bi thiết khóc gào.

Người đã được giải thoát

Nghĩ kỹ sự hưng suy

Tiếng tăm vang các nước

Các Lực Sĩ Câu Di

Buồn bã vội vàng đến

Nhóm trong rừng Song Thọ

Bi thương tự gieo mình

Khen các công Đức Phật

Tiếng than rất đau buồn

Như ngỗng gặp diều hâu.

Đến thấy Phật mất sáng

Vắng lặng không biết gì

Họ đồng thanh gào khóc

Oằn oại như cá cạn.

Thấy Phật nằm yên nghỉ

Chi thể đều duỗi ngay

Như Vua Chuyển Luân mất

Các nước đều than khóc

Nhân dân nhiều vô số

Ra thành đến chỗ Phật.

Đủ già trẻ, bé lớn

Tâm buồn đau cuồng loạn

Hoặc xé rách y phục

Đau đớn miệng cắn răng

Hoặc tự bứt đầu tóc

Cào cấu cả mặt mày.

Lại có vô số người

Áo não tự gieo mình

Đấm ngực mà kêu Trời

Khen Phật đức vô lượng:

Than ôi! Thầy Trời người

Nơi chúng sinh nương tựa

Sao bỏ đi nhanh chóng?

Dứt hẳn không còn mong!

Đại chúng buồn than khóc

Không còn sức chịu đựng

Vua của các Lực Sĩ

Đau đớn gào than rằng:

Thầy giác ngộ thế pháp

Đã nằm không còn dậy

Giống như đại quân bãi

Cờ lớn không còn hiện

Việc phải làm đã làm

Nên giác Phật đã giác

Ở đời giống như mắt

Nay bỗng chợt nhắm mãi.

Phật là cầu độ khổ

Để giúp người qua sông

Cầu lớn bỗng bị gãy

Lấy gì qua khổ đau?

Ánh tuệ Phật chiếu sáng

Lòng tỏ, tinh tấn ngời.

Xưa mặt Trời Phật hiện

Làm sáng khắp đất Trời

Nay ánh sáng tiềm ẩn

Ở núi lớn vô vi

Thế gian rồi lại sẽ

Chìm vào mãi tối tăm.

Hoặc buồn bã nói sảng

Hoặc sầu muộn nhìn chăm

Hoặc khóc đến tắt tiếng

Hoặc úp mặt dưới đất

Chúng sinh ôm nhiều não

Tướng gào khóc không đồng

Nhưng ai cũng luyến mộ

Đau đớn lòng nóng bỏng,

Rồi xe kiệu trang trí

Bằng bảy báu, ngà voi

Các Lực Sĩ nâng Phật

Đặt lên kiệu báu này.

Hương hoa đủ thứ quý

Biết bao thức diệu kỳ

Các Lực Sĩ kêu khóc

Cúng dường Xá Lợi Phật.

Các thiếu nữ quý tộc

Thân đẹp, tay mảnh mai

Tay cầm màn bảy báu

Đẹp đẽ như lụa Trời

Lọng báu xen châu sáng

Hoặc cầm báu rủ châu

Hoặc cầm quạt bằng báu

Cúng dường Xá Lợi Phật.

Các Lực Sĩ nâng kiệu

Kêu khóc mắt đỏ hoe

Trên không tiếng sấm vang

Vui xứng tai vừa ý.

Trời tung các hoa ý

Liên tục như mưa sa

Hoa Trời rơi xuống đất

Tươi như vừa nở ra.

Các Trời chật hư không

Các báu cúng dường Phật

Nói những lời buồn khổ

Khen ngợi công đức Phật.

Các thần nữ chấp nhạc

Vẩy nước thơm chiên đàn

Tung y báu, Anh Lạc

Cúng dường Xá Lợi Phật.

Các Lực Sĩ nâng kiệu

Rước đến tận trong thành

Trời người cung kính lễ

Theo luyến mộ, khóc than.

Cờ phướn báu bằng lụa

Trang hoàng thành quách kia

Hương hoa và kỹ nhạc

Cúng dường Xá Lợi Phật.

Cúng dường nâng kiệu báu

Theo cửa Tây ra thành

Đến Tây thành liền qua

Đáy nước dòng sông báu

Lên dưới cội cam thọ

Dùng các thứ gỗ thơm

Chất thành giàn củi lớn

Và nhiều loại hương thơm

Hoa hương biết bao loại

Và các thứ trạch hương.

Mọi người đều cầm đuốc

Châm giàn hỏa thiêu Phật

Ba lần đốt giàn hỏa

Lửa không chịu bừng lên

Mọi người đều nghi hoặc

Không biết được nguyên nhân.

Đại Ca Diếp không xa

Nhớ thương đến thăm Phật

Do vậy mà lửa đốt

Cùng thổi không bùng lên.

Khi Ca Diếp vội đến

Kính lễ Đức Phật xong

Khi ấy giàn hỏa Phật

Liền tự nhiên cháy bừng,

Trần lao không tổn Phật

Nay bị lửa cháy thiêu

Cơ thể tuy cháy hết

Xương như cũ không tiêu.

Bấy giờ các Lực Sĩ

Đem sữa rưới tắt lửa

Dùng nước thơm rửa xương

Bình vàng đựng Xá Lợi,

Như Thiên đế ngày trước

Muốn đốt núi Kim Cang

Do ông công đức lớn

Nên lửa không thể đốt

Nay dù lửa thật dữ

Không thể đốt xương Phật.

Các Lực Sĩ xoay vần

Nói dụ này bảo nhau:

Bốn tâm bình đẳng sinh

Dập tắt lửa dâm dục

Xương Phật mát mẻ lặng

Lòng chúng ta cháy tiêu.

Các Trời, Thần, Lực Sĩ

Không thể thắng thân Phật

Nay bỗng gặp vô thường

Chúng ta gánh vác làm

Sức Phật mạnh không sánh

Tiếng vang khắp mười phương

Tại sao phải hoảng hốt?

Đầy ở trong bình vàng

Phật sáng như mặt trời

Chưa từng có cống cao

Gặp phải lửa vô thường

Chỉ để lại xương thần

Dùng chày tuệ Kim Cang

Đập vỡ núi trần lao

Gặp khổ không xả nhẫn,

Tâm vững chắc không động

Nhổ hết các gốc khổ

Dứt, không còn thọ thân

Thân nhiệm mầu như vậy

Mãi mãi ở trong lửa.

Nơi Lực Sĩ thường đến

Lực phục khiến người khóc

Người nào đến quy phục

An ủi làm người vui

Giả sử gặp gian nan

Đủ sức không than khóc

Tự nghĩ công đức Phật

Kêu khóc nhận Xá Lợi.

Có sức mạnh vũ dũng

Chí tự đại tinh ròng

Kêu khóc trở vào thành

Dứt cống cao, khiêm nhượng

Phướn lọng bày đại điện

Làm tòa cao bảy báu

Đặt Xá Lợi lên đó

Mọi người lễ cúng dường.

***