Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Phổ Môn Phẩm

PHẬT THUYẾT

KINH PHỔ MÔN PHẨM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN BỐN
 

Lại bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Thế nào là Bồ Tát bình đẳng đối với các gốc thiện đức?

Chúng sinh tu thiện với biết bao nhiêu sự vận hành của tâm. Các hành như nhau, không có hành nào sai khác, chỉ thực hành một hạnh, không làm chướng ngại hành hiện tại.

Biết rõ hành không hai thì có thể bình đẳng. Do biết các hành bình đẳng, như huyễn, sắc thanh đồng như nhau thì hiểu rõ âm thanh lời nói. Âm thanh lời nói không hai, giống như tiếng vang, như bóng hình, qua lại giáp khắp, cũng không nơi chốn. Gốc đức cũng như vậy, như huyễn, như hóa. Đó là Bồ Tát bình đẳng đối với gốc thiện đức.

Lại bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Thế nào là Bồ Tát bình đẳng đối với hữu vi?

Có, không có, tất cả đều từ niệm. Niệm ấy tức là niệm rỗng không, suy xét không thể lường, khó tính toán, không biên cương, không ranh giới, khởi lên làm tưởng. Tưởng là từ duyên niệm, tính đếm cũng không cùng tận, rõ biết bình đẳng là vô cùng, không vận hành không ảnh tượng, giải nói đồng vắng lặng, thấy tất cả đều an, đã an, đã đẹp, không chấp vô thường. Đó là Bồ Tát bình đẳng đối với hữu vi.

Lại bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Thế nào là Bồ Tát bình đẳng đối với vô vi?

Gốc thanh tịnh, pháp vắng lặng, cũng không nhóm họp, hình không rõ, tiếng giả dối, quán sát bình đẳng thì âm thanh không ngôn từ, không giáo hóa, đều vô vi. Quán bình đẳng các sự đắm trước lời nói, âm thanh như thế, đó là Bồ Tát bình đẳng đối với vô vi.

Lại bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Thế nào là Bồ Tát bình đẳng đối với bình đẳng?

Trong chỗ hữu vi chẳng trụ hữu vi. Các hành bình đẳng như hư không, không ngăn ngại, chẳng trụ ba cõi.

Ba cõi vốn không, vì sao cầu Niết Bàn?

Niết Bàn vắng lặng không xuất, không nhập, không ngôn, không thuyết, cho đến hoàn toàn an ổn, độ thoát tất cả chúng sinh không rõ là bao nhiêu. Pháp thân như hư không, không hợp, không tan, cũng không qua lại, cũng không tới lui, như hư không rỗng lặng. Đó là Bồ Tát bình đẳng đối với bình đẳng.

Ngay khi Thế Tôn thuyết chương cú này, thật chưa từng có, người làm theo như thế, chẳng thể nghĩ bàn, hiếm có ở đời.

Khi ấy, có một vạn hai ngàn Bồ Tát đều đắc pháp nhẫn vô sinh. Bảy mươi hai ức trăm ngàn trời người đều phát tâm nơi quả vị vô thượng chánh chân. Hai trăm sáu mươi vạn Tỳ Kheo đạt được lậu tận. Có sáu ngàn Tỳ Kheo Ni đều phát tâm nơi quả vị vô thượng chánh chân. Có hai ngàn hai trăm thiện nam, một ngàn tám trăm thiện nữ cũng đều phát tâm nơi đạo vô thượng chánh chân.

Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Thủ lại bạch: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đại Thánh diễn thuyết danh hiệu tam muội này. Bồ Tát do đây mà đạt được công đức, các căn sáng suốt. Nghe nguyên nhân danh hiệu của tam muội này thì sẽ đạt được tất cả các pháp, thông suốt những điều chưa thông suốt hàng phục được tất cả các mê hoặc tà kiến.

Ưa thích một loại văn tự, phân biệt ro tất cả các loại văn tự, dùng tất cả các loại văn tự để rõ một loại văn tự, trí tuệ biện tài không thể đo lường, vì các quần sinh giảng thuyết chánh pháp, phân biệt hiểu rõ, duyên đúng với pháp nhẫn, đem tất cả hanh nhập vào một tướng, đạt được luận nghị vô lượng vô hạn, hiểu rõ luận nghị bốn biện tài.

Ngay khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ phân biệt tường tận cho ông.

Bồ Tát Phổ Thủ đáp: Thật quý hóa! Chúng con mong muốn được nghe.

Đức Phật dạy: Có tam muội tên Ly vô lượng cấu, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì thấy khắp tất cả các sắc đều thanh tịnh.

Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Có tam muội tên Hoại nhược cang, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì trí tuệ sáng suốt, che lấp tất cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng.

Có tam muội tên Thành cụ quang minh, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì oai quang rực rỡ, che phủ tất cả các báu của Phạm Vương, Đế Thích trong ba cõi. Tất cả đều được an ổn, ánh sáng rực rỡ của Chư Thiên bỗng nhiên không hiện nữa.

Có tam muội tên Xả giới, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì ở giữa chúng hội trừ sạch tất cả bệnh tham, sân, si.

Có tam muội tên Mạc năng tương, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì chiếu sáng tất cả cõi nước của Chư Phật, ở tám phương và phương trên, dưới.

Có tam muội tên chư pháp vô sở sinh, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì nắm được tất cả các điều Phật chỉ dạy trong Kinh Điển, vì chúng hội phân biệt nghĩa cốt yếu, mở bày diễn giảng nghiệp vi diệu không tham đắm.

Có tam muội tên Vô niệm lôi âm, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì lời nói âm thanh thông suốt đến Phạm thiên, diễn thuyết trong mười phương không ai hơn được, ở chỗ tối tăm bị che lấp đều nghe được hết.

Có tam muội tên Hiểu liễu nhất thiết ứng tâm sở nhạo, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì có thể làm cho chúng sinh vui vẻ, tùy theo sự ưa thích của họ khiến cho họ thoát khỏi cái duyên bị câu thúc làm chướng ngại cho sự hiểu biết, tất cả chúng hội đều được an ổn.

Có tam muội tên Vô hội hiện duyệt tinh tấn, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì nhìn thấy mê hoặc từ xưa đến nay là vô vi, không có giới hạn, thấy nghe đều được thông suốt, tất cả sự hội nhập đều có thể vượt qua.

Có tam muội tên Vô niệm bảo đức nhạo ư Thế Giới, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì thị hiện các thần túc, giáo hóa chúng sinh.

Có tam muội tên là Chư âm duyên hội, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì hiểu các âm thanh lời nói, dùng vô số văn tự hiểu rõ một văn tự, dùng một văn tự nói vô số văn tự. Do hiểu rõ văn tự bên trong, văn tự bên ngoài nên thương xót những người bên trong không thông đạt, bên ngoài cũng chẳng rõ, trong ngoài tương ưng, không có các văn tự khác.

Có tam muội tên Tích chúng thiện đức, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì phân biệt tội phước, làm sáng tỏ bình đẳng, có thể làm cho tất cả chúng sinh được nhiều vui vẻ. Khiến nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng chúng Thanh Văn, tiếng Duyên Giác, tiếng Bồ Tát, tiếng Độ vô cực, tiếng Nhất thiết trí. Vị đó có nói ra điều gì cũng không có âm thanh, rõ biết tất cả nghiệp cốt yếu sâu xa.

Có tam muội tên Khởi chư tổng trì vi nhất thiết vương, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì phân biệt tất cả vô lượng tổng trì, lấy trí tuệ làm cốt lõi, khiến cho rõ suốt tất cả pháp vô ngại.

Có Tam muoi tên Tịnh chư biện tài vô vi chi hạnh, giả sử Bồ Tát đạt được định này thì trừ sạch tất cả lời nói âm thanh, không còn ngôn giáo, cũng không âm vang, không lời, không lẽ, cũng không thật có.

Khi ấy, Bồ Tát Phổ Thủ bạch Đức Thế Tôn: Thưa Đại Thánh! Đối với thân thô lậu này thì có nên giảng dạy công đức Kinh Điển không?

Đức Phật bảo: Nên giảng dạy.

Bồ Tát Phổ Thủ bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Giả sử Bồ Tát nghe Kinh Điển này nhưng không hồ nghi, phát tâm thọ trì đọc tụng, giảng thuyết, thì vị đó hiện tại được biện tài vi diệu, biện luận thông minh, biện luận vui vẻ, biện luận thâm diệu, không nhóm họp, thường tu tập tâm từ giúp các chúng sinh, không phá hoại làm tổn thương tâm ý.

Vì sao?

Giả sử lo nghĩ đến những việc đã làm, phụng hành theo hạnh đó thì biết chắc chắn theo chân lý, chưa từng lìa bỏ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Phổ Thủ: Lành thay, lành thay! Ông nói lời đó thật là đúng ý. Giống như bố thí sẽ đạt được giàu có lớn, chẳng hư dối. Trì giới sẽ sinh Thiên, cũng chẳng hư dối.

Làm theo Kinh Điển này cũng như vậy, học tập đưa đến biện tài cũng không hư dối, đều được ý chí căn bản. Giống như mặt trời mọc thì chiếu sáng khắp thiên hạ, trừ hết các sự tối tăm, Kinh này cũng như thế, người học tập đọc tụng đưa đến biện tai thông suốt tất cả.

Ví như Bồ Tát ngồi nơi Đạo Tràng, dưới gốc cây Bồ Đề, đắc quả vị vô thượng chánh chân, thành Tối chánh giác, Bồtát cũng như thế, học tập đọc Tụng Kinh này, chắc chắn được biện tài, trừ hết các sự nghi ngờ.

Thế nên, này Phổ Thủ! Giả sử hiện tại Bồ Tát muốn nêu lên biện tài, hiểu rõ, lựa chọn các pháp thì nghe Kinh Điển này tâm chẳng còn do dự, nên thọ trì giảng thuyết, đọc tụng, vì các chúng hội giảng thuyet rộng rãi ý nghĩa của Kinh.

Bấy giờ, Bồ Tát Ly Cấu Tạng ở trước Phật, bạch: Sau khi Phật diệt độ, có người nào thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Kinh Pháp này, vì chúng hội mở bày giảng thuyết nghĩa lý, kẻ hèn này se vì họ gần gũi tuyên thuyết, giảng giải sự quay về, khiến họ không còn hồ nghi và mau được biện tài.

Khi ấy, các ma buồn rầu rơi lệ, đi đến chỗ Phật, bạch: Cúi xin Thế Tôn đừng kiến lập Kinh này. Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh giác thường nuôi dưỡng lòng thương xót rộng lớn, có người nào bị đau khổ thì ban cho sự an vui lớn. May mắn thay Đại Thánh, kính xin Thế Tôn hãy giải trừ mê hoặc cho chúng con.

Giống như xưa kia Thế Tôn ban đầu ngồi dưới gốc cây, nơi Đạo Tràng diễn Kinh Pháp này. Nay lại thêm một lần nữa Thế Tôn giảng thuyết lại Kinh Điển này. Con nay trong lòng ôm ấp sự lo lắng, uất ức, buồn rầu. Ngay khi Như Lai mới thành Phật đạo đã cứu giúp, con lại chống đối, nhưng không thể thắng.

Tất cả đều sẽ chứng đắc quả vị vô thượng chánh chân không thoái chuyển, thành Tối chánh giác. Nếu có kẻ phàm phu được nghe Kinh này, nghe tiếng, nhớ tên, sẽ đều đắc đạo, sẽ đưa đến diệt độ, sẽ làm trống không cảnh giới của con, cung điện ma trống không. Đại Thánh vỗ về, nuôi nấng, kiến lập đại Bi, nay cúi xin Ngài xót thương cứu giúp.

Đức Phật bảo ma: Này Ba Tuần! Chớ nên sợ hãi, chớ nên khủng khiếp, chớ nên lo buồn. Tất cả chúng sinh chẳng diệt độ hết. Như Lai cũng chẳng kiến lập Kinh này.

Ma nghe Phật dạy, vui mừng hớn hở, tâm thiện phát sinh và bỗng nhiên biến mất.

Bồ Tát Phổ Thủ bạch Phật: Vì lẽ gì Như Lai vì ma giảng thuyết giáo pháp này?

Đức Phật bảo Phổ Thủ: Kinh Điển này trụ nơi không có chỗ trụ, cho nên vì ma thuyết lời này. Ta không kiến lập Kinh này, chân thành không hư dối. Tất cả các pháp trụ nơi không có chỗ trụ, chẳng thể đạt được, không có ngôn từ, lìa cả hai bên, gốc ngọn đều bình đẳng nên chắc thật không gốc.

Pháp Giới như cán cân, bình đẳng như hư không, không có, không không, chân chánh không sai khác. Nay Kinh này lưu bố ở cõi Diêm Phù Đề, trong thiên hạ sẽ có điềm lành ứng hiện.

Thế Tôn vừa kiến lập giáo pháp chân thật, tự nhiên nghe âm thanh cùng khắp giữa hư không: Đúng như lời Phật dạy! Chân thật không hư dối.

Phật bảo Tôn Giả A Nan: Hãy lãnh thọ yếu chỉ Kinh Phổ Môn phẩm này, thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết, chỉ dạy để cùng học tập.

Lại bảo Tôn Giả A Nan: Kho tàng Kinh Điển gồm có tám vạn bốn ngàn pháp phẩm, so với Kinh này đồng nhau không khác.

Vì sao?

Vì một câu Kinh này nhập vào khắp tất cả vô lượng các yếu chỉ pháp giới tuệ môn. Chỉ có Như Lai phân biệt hiểu rõ. Chúng sinh hiểu Kinh Điển này mà được thành đạo, rồi sau đó giảng thuyết kho tàng Kinh Điển tám vạn bốn ngàn pháp phẩm.

Thế nên, này A Nan! Nên thọ trì, đừng để cho bị diệt mất. Phải cẩn thận giữ gìn cho kỹ, vì mọi người thọ trì đọc tụng.

Đức Phật Thuyết Kinh này xong, Bồ Tát Ly Cấu Tạng, Bồ Tát Phổ Thủ, Hiền Giả A Nan, Chư Thiên, loài người, Kiền Đạp Hòa, A Tu Luân… nghe Kinh này hoan hỷ cúi đầu đảnh lễ rồi lui ra.

Nghe như vậy!

Một thời Phật du hóa ở núi Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá cùng với chúng Đại Tỳ Kheo, tám trăm Tỳ Kheo, bốn vạn hai ngàn Bồ Tát đắc các Tổng trì, đã đạt thần thông, Thánh trí rộng lớn, thông suốt tất cả, biện tài vô ngại, đã đạt tam muội, thông hiểu tất cả mọi việc một cách rộng rãi.

Khi ấy, có Bồ Tát tên Ly Cấu Tạng cùng với chín vạn hai ngàn Bồ Tát, từ nước tịnh hạnh của Như Lai Phổ Hoa đang đến núi Linh Thứu, ở Thế Giới Nhẫn.

Từ xa trông thấy Bồ Tát Ly Cấu Tạng cùng với vô số ngàn Đại Sĩ quyến thuộc vây quanh du hành trong hư không, Thế Tôn nghĩ: Ly Cấu Tạng này riêng chọn con đường xa đi đến các nước, vâng lời của Như Lai Phổ Hoa Chí Chân Đẳng Chánh Giác nên đến đây lãnh thọ Phẩm Phổ Môn. Nay ta nên tập hợp các chúng Bồ Tát.

Bấy giờ, Đại Thánh liền nhập định, hiển bày và nêu lên giáo pháp, thị hiện cùng khắp, khiến cho các chúng Bồ Tát ở vô lượng. Vô số Thế Giới không hạn lượng, lập tức đều đến và cùng đi đến chỗ Phật ở núi Linh Thứu, nơi cõi nhẫn, cúi đầu lạy sát chân Phật, rồi lui đứng một bên.

Các chúng Bồ Tát ở chỗ vắng vẻ, trong núi Linh Thứu cũng đều đến tập hợp, đảnh lễ xong, lui ngồi một bên.

Bồ Tát Ly Cấu Tạng ngay khi ấy hóa làm hoa sen bảy báu có ngàn cánh, đem đến chỗ Như Lai Năng Nhân, Chí Chân Đẳng Chánh Giác cúi dâng lên và bạch: Như Lai Phổ Hoa, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Thánh Tôn ở Thế Giới Tịnh hạnh có lời kính vấn an Thế Tôn, đi lại có được nhẹ nhàng, thể lực có được khỏe mạnh, đứng ngồi có được an ổn và việc cứu độ có được nhiều không?

Nay sai con đến đây xin Thế Tôn chỉ dạy và xin lãnh thọ Phẩm Phổ Môn là phẩm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Cúi xin Thế Tôn Giảng thuyết cho hàng Bồ Tát.

Khi ấy, Đại Sĩ Bồ Tát Ly Cấu Tạng thưa hỏi đầy đủ xong, lui lên hư không cùng với các Bồ Tát ngồi xếp bằng trên tòa sen báu.

Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Thủ ngay giữa đại hội đại chúng, đứng lên sửa áo, bày vai phải, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật: Lành thay, kính bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn Giảng thuyết về nguồn gốc của Phẩm Phổ Môn, là phẩm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Nguyện xin Thế Tôn vì các Bồ Tát phân biệt giảng thuyết. Nhớ lại thuở xưa, cách đây nhiều đời, từ Như Lai Phổ Hoa, Chí Chân Đẳng Chánh Giác được nghe Kinh Điển này, lập nên tám mươi bốn vạn trăm ngàn ức tam muội, từ lâu đã đạt được bảy mươi bảy ức trăm ngàn pháp môn tổng trì. Cúi xin Thế Tôn thương xót các Bồ Tát mà tuyên dương lại.

Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Thủ: Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ.

Đáp: Dạ bạch Thế Tôn! Chúng con mong muốn được nghe.

Phật bảo Bồ Tát Phổ Thủ:

Nếu có Bồ Tát muốn học pháp nhập vào Phổ Môn thì ý phải phân biệt bình đẳng:

Đến với sắc, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với âm thanh, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với mùi hương, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với các vị, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với xúc, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với tâm tánh, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với người nữ, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với người nam, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với đồng nữ, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với đồng tử, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với Chư Thiên, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với các rồng, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với Quỷ Thần, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với Kiền Đạp Hòa, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với A Tu Luân, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với Ca Lâu La, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với Chân Đà La, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với Ma Hưu Lặc, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với địa ngục, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với ngạ quỷ, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với súc sanh, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với tham dâm, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với sân hận, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với ngu si, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với bất thiện, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với các cội gốc công đức, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với các hữu vi, ý phân biệt bình đẳng.

Đến với các vô vi, ý phân biệt bình đẳng.

***