Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã
PHẬT THUYẾT
KINH PHÓNG QUANG BÁT NHÃ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Vô La Xoa, Đời Tây Tấn
PHẨM BA MƯƠI
PHẨM MƯA PHÁP
Bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân nghĩ: Tôn Giả Tu Bồ Đề nói pháp như mưa rưới khắp tam thiên đại thiên Thế Giới.
Từ Cõi Trời Tứ Thiên Vương lên đến Cõi Trời Sắc Cứu Cánh, các Cõi Trời đều suy nghĩ: Nay Tôn Giả Tu Bồ Đề vì chúng ta mà ban mưa pháp. Chúng ta nên hóa hiện hoa đẹp để rải trên Đức Phật Thế Tôn, các Đại Bồ Tát, các đại đệ tử và Tôn Giả Tu Bồ Đề.
Ngay lúc ấy, các vị Thích Đề Hoàn Nhân và các Cõi Trời Tứ Thiên Vương trong tam thiên đại thiên Thế Giới đều hóa hiện hoa đẹp rải trên Đức Phật, các Đại Bồ Tát, các Tỳ Kheo Tăng cùng Tôn Giả Tu Bồ Đề và cúng dường bát nhã Ba la mật.
Lúc bấy giờ, khắp tam thiên đại thiên Thế Giới, Chư Thiên rải hoa đầy trong hư không giống như cái hoa ở chỗ ngồi. Ngay lúc ấy, những hoa đang lơ lửng trong hư không hóa thành những đài hoa xinh đẹp đặc biệt.
Khi ấy, Tu Bồ Đề nghĩ: Từ khi ta lên cung Trời này chưa từng trông thấy những hoa như vậy. Những hoa mà Thiên Tử rải là hóa hoa, không phải hoa từ cây sinh ra.
Thích Đề Hoàn Nhân nói với Tôn Giả Tu Bồ Đề: Những hoa này chẳng phải hoa tươi cũng không phải hoa của cây ý tưởng.
Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Này Câu Dực! Những hoa này nếu không do cây sinh ra thì chẳng gọi là hoa.
Thích Đề Hoàn Nhân hỏi Tu Bồ Đề: Chỉ có hoa này là không sinh hay là năm ấm cũng không sinh?
Tu Bồ Đề đáp: Hoa này và năm ấm cả hai đều không sinh. Nếu không sinh thì không phải là năm ấm. Sáu tình cũng không sinh, nếu không sinh thì không phải sáu tình. Sáu pháp Ba la mật cũng không sinh, nếu sáu pháp Ba la mật không sinh thì không phải sáu pháp Ba la mật.
Từ nội ngoại không đến hữu pháp, vô pháp không cũng không sinh, nếu không sinh thì chẳng phải hữu pháp, vô pháp không, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười tám pháp bất cộng. Cho đến trí nhất thiết cũng không sinh, nếu không sinh thì không phải là trí nhất thiết.
Thích Đề Hoàn Nhân nghĩ: Biện tài của Tôn Giả Tu Bồ Đề rất sâu và vi diệu, nên mới biết như vậy. Tùy theo biện tài ấy mà Tôn Giả Tu Bồ Đề thuyết pháp thích hợp căn cơ mà không bị trái ngược.
Đức Phật bảo Thích Đề Hoàn Nhân: Đúng như vậy! Này Câu Dực! Tôn Giả Tu Bồ Đề thật là vi diệu tối thượng, thuyết pháp hợp căn cơ không trái ngược.
Thích Đề Hoàn Nhân bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tôn Giả Tu Bồ Đề thuyết pháp hợp với căn cơ không trái ngược sai lầm như thế nào?
Đức Phật bảo Câu Dực: Năm ấm, sáu tình chỉ là số mà thôi. Vì năm ấm, sáu tình chỉ là số cho nên những gì Tu Bồ Đề nói là không nhầm lẫn.
Vì sao?
Vì theo đúng như pháp thì không nhầm lẫn cũng không hòa hợp, vì không hòa hợp nên không nhầm lẫn. Vì thế những điều mà Tu Bồ Đề nói là không nhầm lẫn. Cho đến sáu pháp Ba la mật, nội ngoại không, hữu pháp vô pháp không, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười tám pháp bất cộng cũng đều như vậy.
Từ quả Tu Đà Hoàn cho đến Bích Chi Phật Đạo cho đến trí nhất thiết và sự thực hành trí nhất thiết cũng như vậy. Từ Tu Đà Hoàn, A La Hán, Bích Chi Phật cho đến Chánh Đẳng Giác cũng như vậy.
Này Câu Dực! Những quả vị đó chỉ là những pháp số thôi, những điều Tôn Giả nói cũng là những pháp số. Cho nên Tôn Giả Tu Bồ Đề nói không sai trái.
Vì sao?
Như pháp thì không hòa hợp cũng không nhầm lẫn, vì không hòa hợp không nhầm lẫn cho nên Tu Bồ Đề nói pháp như vậy, tùy theo căn cơ của họ nên không nhầm lẫn.
Tu Bồ Đề nói: Đúng như vậy! Này Câu Dực, như giáo pháp Đức Phật Thế Tôn đưa ra mà Bồ Tát thực hành bát nhã Ba la mật, thì nên biết những pháp ấy cũng chỉ là những pháp số thôi.
Này Câu Dực! Bồ Tát học như vậy là học sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không thấy năm ấm để học. Bồ Tát học như vậy là không học nội ngoại không và hữu pháp, vô pháp không.
Vì sao?
Vì không thấy có pháp để học. Bồ Tát học như vậy là học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, không học quả Tu Đà Hoàn, A La Hán, Bích Chi Phật cho đến nhất thiết chủng trí đạo.
Vì sao?
Vì không thấy trí nhất thiết để học.
Thích Đề Hoàn Nhân thưa Tôn Giả Tu Bồ Đề: Vì sao không thấy năm ấm cho đến trí nhất thiết cũng không thấy.
Tu Bồ Đề đáp: Này Câu Dực! Năm ấm va không của năm ấm, trí nhất thiết và không của trí nhất thiết.
Vì sao?
Không thể vì sắc của không mà học không của sắc, không vì không của trí nhất thiết mà học trí nhất thiết của không, không vì học không là để học không, không vì cả hai học như vậy để học, không vì cả hai việc để học không của năm ấm, không vì cả hai việc để học không của nhất thiết chủng trí.
Này Câu Dực! Không dùng hai việc để học năm ấm của không là học sáu pháp Ba la mật, không dùng hai việc học không của nhất thiết chủng trí để học sáu pháp Ba la mật, để học nội ngoại không đến hữu pháp vô pháp không, để học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười tám pháp bất cộng. Không vì hai việc học để học Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán, Bích Chi Phật. Không dùng hai việc để học Chánh Đẳng Giác. Cũng không dùng hai việc để học nhất thiết chủng trí, học Phật.
Bồ Tát này học trí nhất thiết là học trong vô lượng, vô biên atăng kỳ pháp Phật.
Bồ Tát này học Phật Pháp, không học năm ấm tăng, không học năm ấm giảm, cho đến không vì nhất thiết tăng mà học, cũng không vì nhất thiết giảm mà học. Như vậy Bồ Tát học về không tăng không giảm, cũng không chấp nhận năm ấm cũng không nửa đường diệt năm ấm mà học, đến trí nhất thiết cũng không thọ học cũng không nửa đường diệt trí nhất thiết.
Xá Lợi Phất hỏi Tôn Giả Tu Bồ Đề: Bồ Tát học như vậy không vì nhận lấy trí nhất thiết mà học cũng không vì nửa đường diệt trí nhất thiết mà học chăng?
Tu Bồ Đề đáp: Đúng như vậy!
Xá Lợi Phất lại hỏi: Tại sao từ năm ấm đến trí nhất thiết không vì nhận lấy mà học, cũng không vì nửa đường diệt trí nhất thiết mà học?
Tu Bồ Đề đáp: Sắc này tự nó không nhận lấy cũng không có người nhận lấy sắc, cho đến trí nhất thiết cũng không tự nhận được cũng không người nhận trí nhất thiết, từ nội ngoại không đến hữu pháp, vô pháp không chẳng tự nhận cũng không người nhận lấy không.
Như vậy, Xá Lợi Phất, đối với các pháp, các Đại Bồ Tát đã không có sự nhận lấy cho nên ở trong trí nhất thiết sinh ra.
Xá Lợi Phất hỏi: Bồ Tát học bát nhã Ba la mật đối với các pháp không nhận lấy thì sinh ra trí nhất thiết phải không?
Tu Bồ Đề đáp: Đúng như vậy!
Xá Lợi Phất lại hỏi: Bồ Tát học như vậy đối với tất cả pháp không nhận lấy cũng không học nhận lấy, không học diệt thì làm sao sinh ra được trí nhất thiết?
Tu Bồ Đề đáp: Bồ Tát thực hành bát nhã Ba la mật không thấy sắc sinh cũng không thấy sắc diệt, không thấy thọ cũng không thấy không thọ, không thường, không đoạn, không tăng, không giảm.
Tại sao?
Xá lợi phất! Không cho năm ấm là có, không thấy sinh cũng không thấy diệt, không thấy thọ không thấy không thọ, không thấy thường không thấy đoạn, không thấy tăng không thấy giảm.
Tại sao?
Vì không thấy có năm ấm đến trí nhất thiết, không thấy sinh diệt, không thấy nhận lấy, không thấy thường, không thấy đoạn, không thấy tăng, không thấy giảm.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết là không nên không sự đắc. Vì thế Bồ Tát đối với tất cả các pháp không sinh, không diệt, không thọ, không thường, không đoạn, không tăng, không giảm mà học bát nhã Ba la mật nên sinh trí nhất thiết.
Nên nghĩ như vậy: Không có gì để học cũng không có gì để sinh.
Thích Đề Hoàn Nhân hỏi Xá Lợi Phất: Bồ Tát nên do đâu để cầu bát nhã Ba la mật?
Xá Lợi Phất đáp: Này Câu Dực! Đại Bồ Tát nên cầu tuần tự như Tu Bồ Đề.
Thích Đề Hoàn Nhân hỏi: Có phải do nhân duyên và ân lực của Tu Bồ Đề mà khiến Xá Lợi Phất nói Đại Bồ Tát bát nhã Ba la mật nên cầu tuần tự như Tu Bồ Đề chăng?
Tu Bồ Đề đáp: Này Câu Dực! Chẳng phải nhân duyên và ân lực của tôi.
Thích Đề Hoàn Nhân hỏi: Đó là ân lực của ai vậy?
Tu Bồ Đề đáp: Đó là thần lực của Đức Phật.
Thích Đề Hoàn Nhân nói: Tất cả các pháp đều không nơi chốn, tại sao nói do từ nơi oai thần của Phật?
Như Lai không từ trong pháp khác với nơi chốn mà thấy, Phật cũng không ở trong như mà thấy?
Tu Bồ Đề đáp: Đúng như vậy!
Này Câu Dực! Như Lai không từ trong nơi chốn khác mà thấy, cũng không từ trong của nơi chốn khác mà thấy, cũng không lấy Như Lai là Như, cũng không lấy Như là Như Lai. Không cho như của năm ấm là Như Lai, cũng không cho Như Lai là như của năm ấm.
Không lấy pháp của năm ấm là Như Lai, cũng không lấy Như Lai là pháp của năm ấm. Không lấy như của trí nhất thiết là Như Lai, cũng không lấy Như Lai làm như của trí nhất thiết. Không lấy pháp của trí nhất thiết là Như Lai, cũng không lấy Như Lai là pháp trí nhất thiết.
Này Câu Dực! Nếu Phật cùng pháp năm ấm không hợp, cũng chẳng không hợp, không lìa pháp của năm ấm là có hợp hay không hợp?
Cũng không lìa như của năm ấm là có hợp hay không hợp?
Cho đến trí nhất thiết, pháp như của trí nhất thiết không hợp cũng không phải không hợp. Không lìa trí nhất thiết, pháp như của trí nhất thiết không hợp cũng không phải không hợp.
Này Câu Dực! Vì thế trong tất cả các pháp không hợp, không tan là xứ sở của thần lực. Đây là hành động không xứ sở.
Như lời Câu Dực vừa hỏi: Nên cầu bát nhã Ba la mật như thế nào?
Không nên ở trong năm ấm mà cầu cũng không rời năm ấm mà cầu bát nhã Ba la mật.
Vì sao?
Này Câu Dực! Bát nhã Ba la mật này là năm ấm, tất cả pháp này không đồng, không khác, không hình, không thể thấy, không chướng ngại, một tướng, một tướng tức là vô tướng.
Lại nữa, này Câu Dực! Bồ Tát cầu bát nhã Ba la mật không rời trí nhất thiết mà cầu cũng không ở trong trí nhất thiết mà cầu.
Tại sao?
Vì bát nhã Ba la mật và trí nhất thiết, những điều cầu không đồng, không khác, không hình, không thấy, không ngại, một tướng, một tướng tức là vô tướng.
Vì sao?
Vì bát nhã Ba la mật không phải năm ấm cũng không rời năm ấm. Bát nhã Ba la mật không phải trí nhất thiết cũng không lìa trí nhất thiết. Như của năm ấm không phải bát nhã Ba la mật, bát nhã Ba la mật cũng không lìa như của năm ấm. Bát nhã Ba la mật không phải pháp của năm ấm cũng không lìa pháp của năm ấm. Bát nhã Ba la mật không phải pháp của trí nhất thiết cũng không rời pháp của trí nhất thiết.
Vì sao?
Này Câu Dực! Vì tất cả pháp này không có cũng không thể thủ đắc. Vì tất cả pháp không thể thủ đắc nên bát nhã Ba la mật không phải là năm ấm cũng không lìa năm ấm. Bát nhã Ba la mật không phải pháp năm ấm cũng không lìa pháp năm ấm. Bát nhã Ba la mật không phải như của năm ấm cũng không lìa như của năm ấm.
Bát Nhã Ba la mật không phải trí nhất thiết cũng không lìa trí nhất thiết. Bát nhã Ba la mật không phải như của trí nhất thiết cũng không lìa như của trí nhất thiết, không phải pháp trí nhất thiết cũng không lìa pháp trí nhất thiết.
Thích Đề Hoàn Nhân nói: Ma Ha Ba la mật này là hạnh lớn của Đại Bồ Tát. Ba la mật là hạnh lớn của vô lượng, vô biên của hàng Bồ Tát, do học pháp này mà đạt được Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, học các pháp này thì thành tựu Bồ Tát, thanh tịnh Cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, chứng vô thượng bồ đề.
Tu Bồ Đề nói: Này Câu Dực, đúng như vậy! Đúng như Thích Đề Hoàn Nhân đã nói, người đã chứng, người đang chứng đều từ trong bát nhã Ba la mật này mà thành tựu bậc Chánh Đẳng Giác. Vì năm ấm rộng lớn nên bát nhã Ba la mật cũng rộng lớn.
Này Câu Dực! Năm ấm không trước, không sau, không ở giữa cũng không ở bờ mé, cho đến trí nhất thiết cũng vậy.
Này Câu Dực! Đây là sự hóa độ lớn lao của Đại Bồ Tát, vì năm ấm vô lượng cho nên sự hóa độ của Đại Bồ Tát cũng vô lượng.
Tại sao?
Vì năm ấm không thể lường. Ví như hư không, không thể lường. Cho nên năm ấm cũng không thể lường. Vì hư không không thể lường nên năm ấm không thể lường, vì năm ấm không thể lường nên bát nhã Ba la mật cũng không thể lường. Cho đến trí nhất thiết không thể lường nên bát nhã Ba la mật của Đại Bồ Tát cũng không thể lường.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết không lường, nên hư không cũng không thể lường. Vì trí nhất thiết không lường nên hư không cũng không thể lường. Vì hư không không thể lường nên bát nhã Ba la mật cũng không thể lường.
Này Câu Dực! Do nhân duyên này nên bát nhã Ba la mật của Đại Bồ Tát không thể lường, hư không cũng không thể lường. Vì năm ấm vô biên nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát cũng vô biên.
Vì sao?
Vì bờ mé và đáy của năm ấm không thể thấy được, cho đến trí nhất thiết cũng không có đáy nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát cũng không có đáy.
Vì sao?
Này Câu Dực! Vì trí nhất thiết không có đáy cũng không có bờ mé, cho nên bát nhã Ba la mật của Đại Bồ Tát cũng không có đáy. Từ năm ấm không có đáy đến trí nhất thiết cũng không có đáy.
Lại nữa, này Câu Dực! Vì nhân duyên không có đáy nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát cũng không có đáy.
Thích Đề Hoàn Nhân thưa: Bạch Tôn Giả Tu Bồ Đề, thế nào là nhân duyên không có đáy nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát không có đáy?
Tu Bồ Đề đáp: Vì nhân duyên của trí nhất thiết không có đáy nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát không có đáy. Vì nhân duyên của pháp không có đáy nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát không có đáy.
Thích Đề Hoàn Nhân hỏi: Thế nào là nhân duyên của pháp không đáy nên bát nhã Ba la mật của Bồ Tát không đáy?
Tu Bồ Đề đáp: Này Câu Dực! pháp tánh không đáy nên nói chúng sinh có thật chăng?
Thích Đề Hoàn Nhân thưa: Thưa Tôn Giả, không có thật!
Này Câu Dực! Nếu không nói có chúng sinh thì chúng sinh ở đâu mà có biên giới?
Này Câu Dực! Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác sống lâu đến hằng hà sa số kiếp nói chúng sinh có sinh, có diệt.
Ý ông thế nào?
Thật có chúng sinh có sinh, có diệt không?
Thích Đề Hoàn Nhân thưa: Thưa không! Vì sao?
Vì chúng sinh thanh tịnh nên không có gì thanh tịnh cả.
Vì vậy, Câu Dực nên biết, vì chúng sinh không có đáy, nên bát nhã Ba la mật không đáy, cũng không ngằn mé.
***