Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân

PHẬT THUYẾT KINH

QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH

BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN

Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trí Nghiêm, Đời Đường
 

PHẦN MƯỜI MỘT
 

Cái gọi là sắc ấm

Sắc ấm không có ngã

Lời chẳng tự tại, không

Rốt ráo chẳng sinh diệt.

Tánh lời nói đã nói

Rốt ráo không thật có

Vì không thật có nên

Gọi tên là sắc ấm.

Thọ, tưởng cũng như vậy

Hành, thức cũng như thế

Vì không có, lời nói

Gọi tên là năm ấm.

Ấm này chẳng thể nói

Cũng lại chẳng thể đoạn

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Không chỗ, chẳng vô thường.

Chẳng phiền não, giải thoát

Chẳng báo, cũng chẳng nghiệp

Chẳng giữ cũng chẳng bỏ

Chẳng đùa bỡn, vắng lặng.

Cũng chẳng Xa ma tha

Chẳng Tỳ Bà xa na

Chẳng ham nhiều, biết đủ

Chẳng tinh tấn, biếng nhác.

Chẳng động cũng chẳng hối

Cũng không có thêm, bớt

Không được pháp sinh ra

Có thể dùng làm giới

Không tu, không phân biệt

Giảng nói không phân biệt

Không sợ, không tranh chấp

Không buộc, cũng không mở.

Do đó vào lời nói

Lời nói không chỗ nhập

Lời nói và nói pháp

Không lời nói mà nói.

Tự mình hiện thấy được

Nói pháp vô cùng tận

Nương pháp chánh định ấy

Chẳng đắm mọi lời nói.

Có trí hiện thấy này

Biết lời nói bình đẳng

Như nói năng các pháp

Dùng không lời để nói

Đã được hiện thấy này

Nên đạt được tự tại

Không còn theo người khác

Đó gọi là Chánh Giác

Bích Chi Phật khó nghĩ.

Lại nữa, này A Nan! Các Đại Bồ Tát hiện thấy vô minh và vô minh hành, không dấy tưởng chấp, biết tự tánh của thức, biết tư tánh của danh sắc, biết tự tánh của lục nhập, biết tự tánh của xúc, biết tự tánh của thọ, biết tự tánh của ái, biết tự tánh của thủ, biết tự tánh của hữu, biết tự tánh của sinh, biết tự tánh của già chết. Đối với các pháp này hiện thấy rõ ràng gọi là Bích Chi Phật.

Lúc này, Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ sau đây:

Nhận thức về vô minh

Rốt ráo chẳng hề sinh

Như bóng dưới đáy nước

Đầu, cuối không thật có

Thấy rõ tất cả pháp

Không có tướng dao động

Nếu thấy pháp như vậy

Nên gọi là thông sáng.

Tánh sáng như hư không

Tất cả pháp đều thế

Nếu nhận thức được vậy

Đó gọi Bích Chi Phật.

Như nói hành thân này

Là không ở bên trong

Cũng không ở bên ngoài

Hành thân này không sinh.

Hành thân như cây chuối.

Rốt ráo không bền chắc

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Tánh ấy như hư không.

Các Bồ Tát không sợ

Nếu được nhận thức ấy

Đó gọi là Chánh Giác

Bích Chi Phật khó lường.

Biết rõ tất cả pháp

Tánh chất là như huyễn

Cũng tin hiểu sâu xa

Biết tánh không thật có.

Quán sát thức như vậy

Mọi tạo tác đều vọng

Do rõ được như thế

Biết tánh thức là không.

Đã biết trí, chẳng trí

Tất cả chỗ không nhiễm

Nếu biết pháp như vậy

Nên thức đồng với huyễn.

Như nói các danh sắc

Vô thọ, không thể nói

Biết rõ tanh, tướng ấy

Rốt ráo không thật có

Nói được tánh các nhập

Mà không có tướng chấp

Biết nhập được như vậy

Vì đó là tánh không.

Tánh xúc đâu cũng có

Có mặt trong các nhập

Khi quán sát lúc này

Như huyễn, không thật có.

Tánh xúc vốn tự không

Vì phân biệt nên biết

Nhưng tánh các xúc này

Chỗ trụ không nơi chốn.

Nếu hiện thấy được xúc

Người trí xa lìa được

Có tuệ xa lìa xúc

Đó gọi Bích Chi Phật.

Biết tướng thọ là không

Thọ cũng không tự tánh

Như bọt không bền chắc

Rốt ráo không thật có

Đã đoạn tất cả ái

Thông đạt pháp vô ái

Đã đến chỗ ái hết

Đó gọi Bích Chi Phật.

Biết thủ không chỗ thủ

Cũng biết thủ là không

Chẳng sinh, không thật có

Như Trời nóng lửa nóng

Xưa nay các tưởng hữu

Và vốn có tưởng sinh

Nếu rõ tánh tưởng này

Rốt ráo không thật co.

Đã lìa tất cả già

Thì không còn phải chết

Ở mọi nơi mọi chốn

Không còn thọ thân nữa.

Đã được nhận thức ấy

Nên không có chỗ nương

Gọi là Bích Chi Phật

Giảng nói các Bồ Tát.

Như thế, này A Nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh Văn nói các Đại Bồ Tát được gọi là Bích Chi Phật.

Như thế, này A Nan! Các Đức Phật Như Lai nói các Đại Bồ Tát được gọi là kiên tín, kiên pháp, tám bậc, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan nói kệ rằng:

Bậc Đạo Sư tự tại

Chẳng thể nói mà nói

Trong không trung tạo buộc

Cũng trong không mà mở.

Phật có phương tiện lớn

Giảng nói pháp không đắm

Đối pháp không thể nói

Mà phân biệt giảng nói.

Lúc bấy giờ, Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở thế gian đều sinh nghi ngờ không thể hiểu rõ, vì sao Như Lai Đẳng Chánh Giác nói về, kiên tín, kiên pháp, cho đến Bích Chi Phật?

Phật bảo A Nan: A Nan nên biết! Nếu có chúng sinh đối với các hạnh lành mà các Đức Phật quá khứ đã thực hành mà hiểu được mật ngữ của Như Lai thì sẽ không sinh tâm nghi ngờ.

Vì sao?

Vì biết mật ngữ của Như Lai như huyễn, như ánh lửa khi Trời nóng, như cảnh trong mộng, như bóng, như tiếng vang.

Này A Nan! Người biết mật ngữ như thế sẽ không sinh tâm, nghi ngờ.

Cho nên, này A Nan! Các Đại Bồ Tát đối với mật ngữ của Như Lai Đẳng Chánh Giác nên biết như thế. Nếu có người siêng năng thực hành mà không thấy mình tinh tấn, siêng năng tu tập trí tuệ mà không thấy mình được trí tuệ thì không sinh tâm nghi ngờ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:

Các Phật dẫn dắt đời

Nói mật ngữ khó biết

Phát khởi trang nghiêm lớn,

Không khác Bồ Tát nói.

Kẻ trí kém, biếng lười

Chẳng hiểu được mật ngữ

Phải nên siêng tinh tấn

Mới mong thấu đạt được.

Như huyễn, cảnh trong mộng

Như ánh chớp, tiếng vang

Dùng lời nói hiển bày

Các pháp như vậy thảy.

Biết các Phật như thế

Lời mật ngữ nói ra

Dùng trí tuệ như thế

Soi sáng trí vi mật.

Chẳng nên biết như thế

Bồ Đề có thể nói

Nên giác biết như vậy:

Vô ngôn ngữ nên không

Không chẳng thể biết không

Không, chẳng phân biệt không

Dứt tất cả phân biệt

Hiển bày không như thế

Hư không chẳng chỗ chấp

Cũng không có lấy, bỏ

Cho nên, biết pháp không.

Phật bảo A Nan: Nếu biết pháp hữu vi như thế đều như mộng mà không buông lung thì không sinh tâm nghi ngờ.

Khi Đức Phật nói pháp này, có năm ức Tỳ Kheo phát tâm kiên tín, liền đứng dậy, sửa sang y phục để trần vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay đều cùng hòa hợp, đứng trước Phật nói kệ:

Hôm nay Đức Mâu Ni

Dứt tâm nghi chúng con

Được hiểu nghia vi mật

Để tin cầu bồ đề.

Lại có năm ức vị Tỳ Kheo phát tâm kiên pháp, nghe các Tỳkheo nói bài kệ ấy liền đứng dậy chắp tay, đứng trước Phật, nói kệ:

Nay nhờ ánh bồ đề

Chiếu trừ mọi nghi tối

Được hiểu nghĩa vi mật

kiên pháp cầu bồ đề.

Lại có mười ức vị Tỳ Kheo phát tâm tám bậc, nghe các Tỳkheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp đứng trước Phật, nói kệ:

Trước trụ tâm tám địa

Hôm nay đều dứt bỏ

Hiểu được nghĩa vi mật

Tám bậc cầu giác ngộ.

Lại có mười một ức vị Tỳ Kheo phát tâm Tu Đà Hoàn, nghe các Tỳ Kheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp đứng trước Phật, nói kệ:

Nay đối với pháp Phật

Xé rách được lưới nghi

Rõ mật ngữ của Phật

Giảng nói Tu Đà Hoàn.

***