Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Sinh

PHẬT THUYẾT KINH SINH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

ĐỨC PHẬT THUYẾT

GIẢNG KINH MẬT CỤ
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật du hóa tại khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, cùng với chúng Đại Tỳ Kheo hội đủ. Lúc bấy giờ, có ông Phạm Chí bị mê hoặc do tà thuật của ngoại đạo, chẳng tin Phật Pháp, muốn làm rối loạn Phật Giáo.

Ông đang dạo trong thành, từ xa thấy Đức Như Lai đi tới, ghét không muốn nhìn, liền tránh vào nhà khác để ông Sa Môn Cù Đàm không gặp được mình. Khi đó, Đức Đại Thánh rất thương xót ông Phạm Chí nên hiện ở trước mặt ông, muốn trốn cũng không xong, muốn chạy đi cũng không sao chạy được, ông đành phải đến chỗ Đức Phật.

Đức Thế Tôn vì ông thuyết giảng Kinh Pháp, ông vui mừng, lòng lành phát sinh, liền xin quy y Phật, Pháp, Tăng, thọ trì giới cấm, đi nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đảnh lễ rồi ra về. Về đến nhà, ông liền lấy đồ đựng đầy mật ong, hai tay bưng đến chỗ Đức Phật và dâng lễ. 

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo đem bát mật đó phân chia đều khắp cho Chúng Tăng. Chỉ có một bát mật, Phật và Chúng Tăng dùng đầy đủ rồi mà bát mật ấy vẫn còn đầy như cũ. Chúng Tăng liền đem bát mật trao cho Đức Phật.

Đức Phật bảo ông Phạm Chí: Ông đem mật này đổ xuống chỗ nước lớn có nhiều dòng chảy.

Ông Phạm Chí hỏi Đức Phật: Vì cớ gì?

Đức Phật nói: Vì trong nước có đầy đủ các thứ côn trùng, sâu bọ, sấu, giải, cá, ba ba thảy đều mong có được vị này. Ông Phạm Chí nghe lời, liền đem mật đến đổ vào trong nước, trở lại chỗ Phật, vừa sợ, vừa ngờ, buồn vui lẫn lộn, bồi hồi xúc động.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn cười vui, từ miệng Ngài đạo hào quang năm sắc phát ra, tỏa lên đến cõi Phạm Thiên, chiếu khắp năm đường, soi tỏ tất cả, rồi trở lại nhiễu quanh thân Ngài ba vòng, thọ ký cho Bồ Tát thì hào quang theo đảnh đầu vào.

Thọ ký cho Duyên Giác thì hào quang theo miệng vào, thọ ký cho Thanh Văn thì hào quang theo khuỷu tay vào, nói phước đức trên Cõi Trời thì hào quang theo xương sống vào, nói việc thọ thân người thì hào quang theo đầu gối vào, nói về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì hào quang theo chân vào.

Khi đó, Tôn Giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục cho ngay ngắn, đầu gối bên phải chạm sát đất, chắp tay bạch với Đức Phật: Đức Phật không cười suông, Ngài cười hẳn là có ý gì?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ông thấy không, ông Phạm Chí đem mật dâng lên Phật, rồi mật ấy đem cho cúng Tỳ Kheo Tăng, vẫn còn thừa đem đổ xuống nước.

Tôn Giả A Nan thưa: Vâng ạ!

Đức Phật nói tiếp: Nay ông Phạm Chí hiện tại! Về đời sau này trải qua hai mươi kiếp không bị đọa vào đường ác, qua hai mươi kiếp thì chứng được quả Duyên Giác, tên là Mật Cụ.

Các Tỳ Kheo thưa: Thưa vâng Thế Tôn, chúng con đều thấy ông Phạm Chí ấy chỉ dâng một bát mật mà đạt được nhiều lợi ích và chứng được quả Duyên Giác.

Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo: Ông Phạm Chí ấy không phải chỉ mới đời này dâng một bát mật đạt được nhiều lợi ích, mà ở đời trước ông cũng từng làm như vậy.

Đức Phật kể: Về nhiều đời trong quá khứ không thể kể xiết, có một người Bà La Môn đi vào nơi chốn vắng vẻ, tịch mịch, gặp nhiều vị Thần Tiên đem lòng kính yêu.

Người Bà La Môn đó nghe người ta nói xưa nay Bậc Tiên khó gặp, phải đến mà thưa trình xin gặp, có người bảo phải đem nhiều vật dụng ăn uống, y phục đến ra mắt.

Khi ấy, có một Tiên Nhân chứng đắc năm thứ thần thông, biết được điều nghĩ trong lòng ông Bà La Môn, liền từ nơi chỗ vắng vẻ bên gốc cây bay vụt lên không trung và hiện ra trước mắt người Bà La Môn ấy.

Người này thấy vậy vui mừng vô cùng, lòng lành phát sinh, liền trở về nhà lấy đầy một bát mật đem đến dâng trao cho vị Tiên. Vị Tiên Nhân nhận mật xong thì bay lên không trung. Do cái duyên thực hiện công đức ấy, nên đời sau làm Quốc Vương, tên là Mật Cụ.

Nhà vua dùng luật pháp chân chính để trị nước nên nước được an ổn lâu dài, sau khi mạng chung thì được sinh lên Cõi Trời. Đức Phật bảo cho các vị Tỳ Kheo biết là vị Tiên Nhân chứng đắc năm thần thông chính là bản thân Phật, ông Phạm Chí lúc đó nay là ông Phạm Chí này.

Thời ấy, bố thí mật được phước đức làm Trời, người, từ duyên ấy đời nay cũng lại bố thí mật cho Đức Phật và về sau chứng được quả Duyên Giác.

Bấy giờ, Hiền Giả A Nan dùng kệ tán dương Đức Phật:

Đức Phật đầy lòng từ

Dốc sức độ mọi người.

Vì trời và nhân thế

Lo họ ngục không rời.

Cho nên làm Đấng Thiên Nhân Tôn

Nơi pháp từ bi tuôn mưa pháp

Đem tâm hoan hỷ khuyến khích khắp

Xuất gia vô số sinh Cõi Trời.

Nay vượt dứt lợi, người đều lợi

Nên đều vui lòng quy kính Phật

Cung kính ân cần tạo nhiều ít

Mạng chung đã tận gặp nơi an.

Đức Thế Tôn khen ngợi Hiền Giả A Nan: Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Tôn Giả đã nói.

Lại nữa, này Tôn Giả A Nan! Ta đã tạo vô số hạnh nguyện nên mới thành tựu được đạo quả hôm nay. Phật luôn cứu độ chúng sinh như mẹ nhớ nghĩ đến con.

Đức Phật thuyết giảng như vậy, không ai là không hoan hỷ lãnh hội.

***