Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tâm Phật

PHẬT THUYẾT KINH TÂM PHẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẦN MỘT
 

Ta nghe như thế này!

Một thời Phật trú tại đỉnh núi Kim Cang nước Cu Diễm Di, xem khắp mười phương thấy toàn là màu sắc như lửa cháy.

Thấy thế, Đức Phật khẽ thở dài nghĩ thương chúng sanh sai đường lạc lối, lấy gì cứu thoát.

Đang suy nghĩ như thế, thời Thế Giới của Chư Phật, cảnh giới của Bồ Tát, trên đến Ba Mươi Ba Cõi Trời, dưới đến tận cùng Kim Cang Tế, cung điện của các ma thảy đều rung rinh.

Đồng thời, ba đời Chư Phật thảy đều suy nghĩ như vậy, lại các Bồ Tát nơi tự tâm bất động, các hàng Kim Cang khiến các quyến thuộc làm các Kim Cang sự nghiệp không thể ngồi yên nơi tòa, bay đi khắp mười phương. Các hàng Chư Thiên, Tiên, Ma đều sợ sệt không biết chạy nơi nào.

Bấy giờ có mười Bồ Tát Kim Cang Tạng sửa sang y phục, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn!

Đây là điềm gì?

Là thiện hay là ác?

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lo suy nghĩ nên không trả lời.

Khi đó, ở trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Kim Cang Mẫn bảo Bồ Tát Kim Cang Tạng rằng: Đây là tướng không tốt. Nay Phật đang nhập từ bi tam muội, nên cần tịnh tâm chờ Phật giải thích.

Bấy giờ, lại có một vị Bồ Tát gọi là Đức Tạng hỏi Bồ Tát Kim Cang Mẫn rằng: Vì sao gọi là từ bi Tam Muội?

Bồ Tát Kim Cang Mẫn đáp rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông có biết chúng sanh đang bị đắm chìm trong vô minh hay không?

Ta vì tất cả chúng sanh không biết được pháp, không biết được tâm, không tự điều phục, bị các ma sai sử, lấy gì để cứu hộ, lấy gì để nhiếp phục các độc.

Liền đó, tức có ba chục ngàn vạn ức Bồ Tát đều là các Bậc Quán Đảnh Đại Pháp Vương Tử, đầy đủ đại oai đức tự tại, lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bọn chúng con có thể làm được gì không?

Phật trả lời: Không được.

Lại có trăm ngàn hằng hà sa số Thế Giới Kim Cang Mật Tích, mỗi vị Mật Tích có bốn Thiên hạ Lực sĩ cũng bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Còn chúng con có thể làm được chăng?

Phật Bảo: Không được?

Lại các vị Đại Tự Tại Thiên trong tất cả Thế Giới hay biến thân làm Phật, lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sức biến hóa của chúng con có thể nhiếp được chăng?

Phật Bảo: Sức huyễn hoặc của các ông cũng không thể được.

Lúc ấy, trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Bảo Đức bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tất cả chư Bồ Tát, Kim Cang, Thiên Tiên, cũng không ai nhiếp phục.

Nay Thế Tôn lấy gì để cứu chúng sanh ra khỏi các nạn?

Thời Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Bảo Đức rằng: Chỉ có thần lực của Như Lai tâm trung tâm là không thể sánh kịp.

Vì sao vậy?

Vì hay khiến các ma sanh lòng từ mẫn, hay khiến các pháp hiện tiền, Chư Phật thường không xa lìa, hay khiến Chư Bồ Tát làm quyến thuộc, các Kim Cang ban cho oai lực, hay khiến Chư Thiên thường luôn ủng hộ.

Các Đại Dạ Xoa, La Sát làm người trị pháp, lại hay khiến tất cả các Đại Ma Thần sanh lòng hoan hỷ, hay khiến hành giả sức như Phật, tâm như Phật, trí như Phật, oai như Phật, hay khiến hành giả ra làm việc gì đều được tùy tâm, hay chặt đứt tất cả chướng nạn.

Đế Thích, Phạm Vương đều theo phò trì, khiến cho đến Bồ Tát trọn không thối chuyển, tất cả sự nghiệp thế gian đều tự hiểu biết, cho đến tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả Thế Giới có thông không thông, có trí không trí, hiền hay không hiền thảy đều quy phục.

Bấy giờ, đại chúng nghe xong thảy đều muốn dược nghe. Bỗng nhiên, ở nơi đại chúng phát ánh sáng rực rỡ hơn trăm ngàn mặt trời.

Bồ Tát Bảo Đức lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng này?

Phật Bảo: Đây là ánh sáng hoan hỷ từ tâm trung tâm sanh ra, ánh sáng này không có hạn lượng, không thể xưng tán, ca vịnh, cũng không ấn khả được.

Vì sao vậy?

Vì đồng với Chư Phật vô ấn khả, đồng với Như Lai vô sở đắc, và tất cả các tướng cũng đều vô kiến vậy!

Hay gìn giữ các căn không xả ly, khiến các ma không sai sử và thường ngăn các đạo ma chướng ngại vậy! Do các nhân duyên trên, nên gọi là tâm trung tâm.

Bấy giờ tất cả đại chúng đều bạch Phật rằng: Chúng con đã từng theo Phật tu hành, chưa từng được nghe ca tụng công đức đại oai thần lực như vậy.

Cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà nói chương cú tu chứng giác địa, giúp chúng con được thọ trì pháp này.

Khi đó, Đức Như Lai bảo rằng: Này các thiện nam tử! Nay ta sẽ nói, muốn tu thành Phật thì có mười cách nhất định sau đây sẽ thành tựu.

Thế nào là mười?

Thứ nhất: Trì tâm bình đẳng, nơi pháp không nghi, nơi Phật sanh tín, sanh lòng thương xót chúng sanh, không đắm sắc dục.

Thứ hai: Trì giới không phạm, thường nhiếp tâm không nói láo, hay giúp cho chúng sanh đoạn trừ ngã mạn.

Thứ ba: Không làm ác, không được sát hại, không ăn ác thực thịt, cá v. v…, thường xét kỹ mình không thấy lỗi của người.

Thứ tư: Ở nơi các pháp không sanh phỉ báng, dùng Phật Pháp ngăn ngừa tội lỗi, ở nơi Chư Tăng xem như cha mẹ.

Thứ năm: Không quên lời nguyện, đối với giàu nghèo có tâm bình đẳng, hay tùy thuận người.

Thứ sáu: Lời Phật nhớ kỹ, tu các pháp cần cố giữ gìn, có người cầu xin thì phải dạy bảo, không cần xem xét căn thượng, trung, hạ.

Thứ bảy: Trì các ấn khế, không được dơ uế, không kết trái thời, không vì khen hay lợi lộc mà kết ấn, không lìa bỏ chúng sanh.

Thứ tám: Nơi tất cả không tham lam, không đoạt lý làm ác, không dua nịnh, giữ gìn Phật Pháp như giữ thân mạng, cho đến dẫu đói nghèo cũng không sanh hai lòng.

Thứ chín: Thường cứu các nạn không được thối tâm, trừ kẻ không chí thành, không được khinh hay phỉ báng pháp hoặc khiến kẻ khác cũng làm như vậy, thường phải chân thật nói lời mềm mỏng, hay thích việc lành, lòng đầy từ bi.

Thứ mười: Diệt trừ các tà hạnh, lòng tin bền chắc không từ lao nhọc, trong đại chúng có thiện trí thức cần nên lễ bái và thường gần gũi. Nếu nơi suối rừng thanh tịnh, tự có phát nguyện rộng cũng không được quên lãng, luôn luôn nhớ niệm, không khởi các tà kiến.

Như vậy, mười điều khiến người tu trì quyết định được bất thối chuyển, mau đến bồ đề, thành Bồ Tát, chứng thân Kim Cang không khó.

Khi ấy, các vị Bồ Tát nghe Phật dạy xong, đồng bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện tu học, cúi mong Thế Tôn lấy tâm đại bi nói Thần Chú này, đệ tử chúng con muốn được thọ trì.

Phật Bảo: Các thiện nam tử! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà nói.

Thời Đức Như Lai dùng bồ đề tâm khế, khiến cả đại chúng tâm không vọng động, mà nói chú rằng:

Úm bạt ra bạt ra sam bạt ra sam bạt ra ấn địa lặc da vi du đạt nễ hàm hàm rô rô giá lệ ca rô giá lệ ta phạ ha.

OM BHARA BHARA SAMBHARA SAMBHARA INDRIYA VISODHANE HÙM HÙM RURU CALE KURU CALE SVÀHA. 

Thứ nhất, kết Ấn Bồ Đề tâm khế: Trước hết, hai tay hai ngón vô danh co lại để nơi lưng hai ngón giữa, hai ngón cái vịn đầu móng hai ngón út, hai ngón trỏ co lại móc đầu hai ngón vô danh, chắp tay lại để nơi tim tức thành.

Nếu có người kết Ấn khế này, tức được tâm Bồ Đề, đầy đủ trí của Bồ Tát, đầy đủ các môn Ba La Mật ở nơi tâm.

Tất cả pháp môn bí mật của Chư Phật và Bồ Tát đều do Ấn này mà thành.

Ở nơi tịnh thất, thọ trì Ấn khế này trải qua bảy ngày, tất cả pháp yếu đều hiện tiền, tất cả ma đạo, chúng sanh, đạo quỷ thần, đạo ẩn hình dấu thân, trì Ấn khế này tức biết được chỗ ở của họ, khiến không thể biến hóa ẩn dấu được các thiện nam tử, nếu được Ấn khế này, vừa khởi niệm liền có mười phương Chư Phật vân tập trên đảnh, khởi niệm tức có mười phương Bồ Tát làm thị giả.

Mười phương các Kim Cang theo sai khiến, mười phương Chư Thiên gần gũi cúng dường. Tất cả loài Ma và quyến thuộc bỏ chỗ ở, lại giúp cho pháp thành tựu, tất cả Tỳ Na Dạ Ca cũng đều lại cúng dường.

Các thiện nam tử! Nếu muốn hàng phục các ma oán ngoại đạo, trước kết Ấn khế chú hai mươi mốt biến để nơi tim, đứng thẳng xoay bên trái một vòng. Đại địa tức thời rung rinh, tất cả loài ma liền ẩn trốn xuống đất không dám xuất hiện, nếu có xuất hiện là do Phật thương xót cho phép, tâm không dám oán giận.

Người trì chú không được giận dữ, vì như vậy Chư Phật không hoan hỷ, mười phương không yên.

Ấn khế này là đầu Chư Phật, mẹ của các pháp, Vua của các ấn, mười phương Chư Phật do đây sanh ra, như Chư Phật Thế Tôn không ai dám vượt qua, cần phải xét kỹ không được lạm dụng, xem việc lớn nhỏ mà dùng. Nếu muốn trì các pháp, trước lấy Ấn khế này làm đầu.

Không có Ấn khế này, các pháp như không có chủ. Dẫu có thành tựu, thân tâm cũng không quyết định, chư Thần không vừa ý, khiến làm các pháp hay bị chướng nạn, nên thật cẩn thận, không được bất tịnh dùng Ấn.

Thứ hai, Ấn Bồ Đề Tâm Thành Tựu: Còn gọi là Mười Phương Như Lai Đồng Ấn Đảnh Khế. Trước, lấy hai tay hai ngón giữa xoa nhau phải đè trái, đầu ngón ló ra nơi hổ khẩu, hai ngón vô danh co lại đè lưng hai ngón giữa, hai ngón cái đầu dựa nhau dựa trên lưng hai ngón vô danh, hai ngón trỏ cũng dựa trên lưng hai ngón vô danh đầu dính nhau.

Hai ngón út dựa nhau đứng thẳng, đầu ngón dính nhau, tức thành.

Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân được Ấn khế này chuyển nghiệp tiêu chướng, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Hay trì Ấn khế này, được văn trì bất vong nghe nhớ không quên, các pháp yếu tự nhiên hiểu biết.

Từ trước tới giờ dầu chưa tu trì, khởi tâm làm việc gì đều không sai. Khi trì tụng, có các ngoại đạo và Ma Ba Tuần lại làm não loạn, khởi tâm liền lui.

Có cầu việc gì, lấy Ấn khế chỉ đó tức lại, dù cho các loại dùng các pháp biến hóa mê hoặc, kết khế khởi tâm liền hiện nguyên hình. Cần dùng phục tàng trong lòng đất, bảo châu nơi Long Cung, kết khế khởi tâm tức thời đem lại.

Các pháp yếu trong mười phương Thế Giới, trong tâm mong muốn, trong niệm chỉ bảo rõ ràng. Cầu việc nhỏ không quá ba ngày, việc lớn không quá bảy ngày. Trong mộng Phật tự ấn đảnh, tự hộ công lực.

Nếu muốn thấy Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Quỷ Thần, Tinh linh v. v… kết Ấn khế nơi mắt chú một trăm lẻ tám biến tức thấy, cần phải an nhiên không được sợ sệt khiến thất tâm.

Nếu nơi bổn thổ có các tai họa, kết khế chú một trăm lẻ tám biến, lấy khế chỉ lên Trời viết chữ Phật, tai họa tức tiêu trừ. Nếu trì Ấn khế bị các Ma làm não loạn, chỉ nói tiểu tặc không quá ba lần tức bỏ đi.

Tất cả bệnh tật, tai nạn ở thế gian đều trừ không nghi, kết khế chú mãn một ngày, bệnh cùi hủi tiêu trừ, trừ không chí tâm. Nếu cần pháp yếu nơi Long Tạng, kết khế kêu tên Long Vương, không quá một đêm các pháp tự hiện. Khi thấy được rồi phải gắng thọ trì không được lãng quên.

Nếu được, cần phải giữ bí mật không được truyền cho phi nhân.

Cẩn thận! Cẩn thận! Phải biết việc lớn nhỏ mà dùng khế này, việc lớn nên dùng, việc nhỏ chớ dùng, dùng sẽ mất linh nghiệm.

Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Thứ ba, Ấn Khế Chánh Thọ Bồ Đề: Còn gọi là Nhiếp Thọ Chư Mật Môn Khế, hay còn gọi là Đảnh Luân Khế.

Trước lấy hai ngón vô danh để ló đầu nơi giữa hai ngón trỏ và ngón giữa. Đầu hai ngón trỏ và hai ngón giữa dựa nhau, đầu bằng nhau, hai ngón cái vịn tiết trên hai ngón giữa, hai ngón út đứng thẳng, đầu dựa nhau, chắp tay lại tức thành.

Các Thiện Nam Tử, muốn trì tâm pháp của Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, tùy theo Ấn này khởi niệm tức được trí bất động biến khắp mười phương.

Là Thánh không phải Thánh, là ma không phải ma, cho đến các Thiên Tiên, Tứ Thánh Quả, Đại Quỷ Thần v. v… đồng thời ấn Bổn Tôn tức được khế hợp. Tất cả sự nghiệp nơi thế gian, phải hay không phải, do Ấn này đồng tâm Phật không khác.

Vì sao vậy?

Vì được tam muội của Chư Phật, các Bí tạng của Chư Phật, đều do Ấn này nhiếp hết. Các Phật Đảnh Luân cũng do đây mà thành. Các Kim Cang cũng do đây mà an trụ. Tất cả Chúng Thánh đều lại quy y.

Tất cả các ác đều hướng thiện và đều tự nhiếp tâm vậy. Tất cả các chướng tự nhiên tiêu trừ. Thiên Ma Ba Tuần tự nhiên hàng phục. Lõa hình ngoại đạo tự biết xấu hổ. Tất cả Long Tạng tự nhiên khai mở.

Tất cả các Thần phục tàng tự đem ban cho. Long Vương bảo châu tự nhiên xuất hiện. Diêm La Thiên Tử, Ngũ Đạo Thần quan tự lại sám hối.

Tất cả các pháp không hiện tiền do Ấn này tự nhiên hiện tiền. Tất cả các pháp môn hoặc thuận hoặc nghịch của Phật, Bồ Tát tự nhiên hiểu biết.

Tất cả oai quang của Chư Bồ Tát không che được thân hành giả vậy. Việc nhỏ hay lớn cầu nguyện đều được. Nếu có kẻ trai lành, người gái tín được Ấn khế này thọ trì, trước phải tịnh tâm không cho tán loạn, thường ở nơi định, trước thọ Tam Quy và các tâm giới, sau kết ấn khế này.

Ngay lúc đó, Địa Thần ở mười phương bưng lư hương cúng dường hành giả. Đế Thích Phạm Vương hiện ra trước mặt, nói rõ các bổn nguyện giữ gìn.

Các Đại Thần Vương ở hai bên làm chứng minh. Quán Đảnh Luân Vương và các Thần Chấp Kim Cang ở trước sau, tay cầm phất giữ gìn hành giả.

Các Đức Như Lai ở mười phương phóng bạch hào quang chiếu thân hành giả. Các Kim Cang Tạng ở trên hư không mưa các hoa báu an ủy hành giả. Trong hào quang có hóa Phật cầm ấn Đại Pháp Luân, hành giả được ấn đảnh rồi, các môn Phật Pháp đều tự hiểu biết.

Nếu muốn kết Ấn khế này, thiêu ba thứ hương, một là Đàn hương, hai là Huân Lục hương, ba là Trầm hương, mỗi khi thiêu hương, ba đời Chư Phật đều hiện trước mắt.

Muốn triệu Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Thiên Địa Thần Kỳ, Nhật Nguyệt Tinh Tú, Ngũ Đạo Phù Quan, Tư Mạng Tư Lục, kết Ấn khế này chú hai mươi mốt biến, vận tâm khắp mười phương làm ba lần, tất cả đều đến. Nếu muốn triệu mười phương các Thần Bảo tàng, Long Tàng, Phục Tàng, kết Ấn chỉ lên Trời, liền hiện trước mặt.

Nếu muốn sai khiến Thần Quỷ, Kim Cang, Thiên Thần, Bồ Tát, cho đến tất cả các Bậc có đạo lực, kết khế để nơi miệng đọc thầm bảy lần hoặc hai mươi mốt lần, tức thời hiện tiền tùy ý sai sử.

Mỗi ngày không luận đêm ngày sáng chiều, kết khế tụng một ngàn lần, mười phương Như Lai tức hộ công lực.

Các loại nội đạo, ngoại đạo, các loại có pháp thuật làm huyễn hoặc, muốn phá khởi tâm tức phá. Tất cả các loại tật bệnh, dùng tâm đại bi mà cứu hộ đều được trừ lành.

Có các bệnh khổ lại cầu cứu, không cần đi, chỉ kết Ấn khế miệng bảo: Hãy đến bên bệnh nhân tức có Thánh giả tự biến hóa thân lại mà trị. Muốn dùng pháp này cần phải nén hơi thì thầm, không được bất tịnh dùng pháp, nếu có bất tịnh các pháp không thành.

Nếu các ấn pháp trì lâu không thành, kết Ấn khế này ngày tụng một ngàn lần, không quá bảy ngày tức thành tựu. Không được tiết lộ, nhớ lấy, nhớ lấy, không được truyền phi khí nhân. Cần khổ luyện qua hai mươi mốt ngày, được thành Phật, Bồ Tát.

Thứ tư, Như Lai Mẫu Khe Á: Còn gọi Kim Cang Mẫu, còn gọi Bồ Tát Mẫu, còn gọi Chư Phật Trí Mẫu, Chư Pháp Mẫu, Chư Ấn Mẫu, Tự Tại Thiên Mẫu, còn gọi Khế Trì Mẫu, Tổng Trì Mẫu.

Hai tay chắp lại, hai ngón út trong lòng bàn tay, hai ngón trỏ như câu hai đầu ngón út, hai ngón cái áp lên lóng giữa hai ngón trỏ, hai ngón vô danh đứng thẳng đầu dựa nhau, hai ngón giữa đặt lên lưng hai ngón vô danh, đầu bốn ngón bằng nhau, chắp cổ tay lại tức thành.

Ngồi Kiết già phu, tụng Chú nho nhỏ tức linh nghiệm. Nếu có kẻ trai lành, người gái tín muốn trì Ấn khế này, tâm niệm mười phương Chư Phật bảy lần, sau đó kết Ấn.

Ngày Rằm kết Ấn tụng vạn biến, mười phương Thế Giới tất cả tự tại pháp môn tức thời hiện hiền, cho đến Ba Mươi Ba Cõi Trời cần đến, tức đến không sai khác. Chư Phật trường sanh ta cũng trường sanh. Chư Phật thành đạo, ta cũng thành đạo.

Chư Phật vô ngại, ta cũng vô ngại. Chư Phật hóa thân, phóng quang, tịch định, tam muội, thuyết pháp, không ăn, thì ta cũng hóa thân, phóng quang, tịch định, tam muội, thuyết pháp, không ăn. Cho đến tất cả việc gì Chư Phật làm, ta cũng có thể làm như vậy.

Vì sao thế?

Vì ở trong tám loại mẫu và tám tự tại, Chư Phật thường nói tám tự tại. Ta cũng từ trong đó mà ra không khác. Khế ấn này hay nhiếp lực tự tại trong tám phương, mỗi mỗi phương giới đều có tám tùy tâm.

Tám loại như sau: Một tùy tâm biến hóa, hai là tùy tâm từ bi, ba là tùy tâm cứu khổ, bốn là tùy tâm thuyết pháp, năm là tùy tâm tự tại thuận nghịch, sáu là tùy tâm nhiếp chư yếu khế tự lai tương trục, bảy là tùy tâm mà tất cả độc ác khiến đều hướng thiện cho đến thành Phật không thố ùi chuyển, tám là tùy tâm mà tất cả quả báo phước đức ở nơi thế gian cần cho thì cho, cần bỏ thì bỏ cần tu thì tu, muốn thành tức thành, muốn phá tức phá.

Này Thiện Nam Tử, như vậy trong các loại tùy tâm, mỗi loại đều có trăm ngàn việc tùy tâm không thể nói hết. Nếu có cầu việc gì sáng chiều kết khế ấn mà cầu đều, nếu không như vậy Chư Phật tức vọng ngôn.

Nếu có kẻ trai lành người gái tín muốn trì Ấn khế này, cầu Phật vị, cầu Bồ Tát vị, cầu Kim Cang vị, Thiên Thần vị, cầu hiện mười phương, cầu sanh Tây phương, cầu sanh hạ phương, cầu sanh trong mười phương tự tại, cầu trí thế gian biện luận giỏi v. v… chỉ cần chí tâm suy nghĩ việc đó, ngày tụng một ngàn biến, trong bảy ngày tức được một lần ra khỏi, không có trở lại.

Vì sao vậy?

Vì đồng thân Phật được Phật thần thông, vì đồng tâm Phật được Phật từ vậy, vì đồng Phật nhãn thấy như Phật, vì đồng Phật lực được Phật giữ gìn, vì đồng Phật hành ở nơi thế gian, vì đồng Phật ấn gần gủi lãnh thọ, vì biến hóa đồng với Chư Phật, vì được pháp thân nên chư ma ngoại đạo tự hàng phục.

Lấy gì hàng phục?

Thấy hai thân tức thấy một thân, thấy hai Phật tức thấy một Phật.

***