Kinh Nguyên thủy
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Bốn Mươi Hai - Phẩm Bát Nạn
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẨM BỐN MƯƠI HAI
PHẨM BÁT NẠN
PHẦN BA
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở tại nước Xá Vệ, trong vườn Lộc Dã cùng với chúng đại Tỳ Kheo năm trăm người câu hội. Lúc ấy, A tu la tên Ba Ha La và Thiên Tử Mâu Đề luân phi thời đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, lui ngồi một bên.
Khi ấy Đức Phật hỏi A tu la: Các ông rất thích biển lớn, phải không?
A Tu La bạch Phật: Rất thích! Không phải không thích.
Ðức Phật bảo: Trong biển lớn có pháp kỳ đặc gì mà các ông thấy rồi vui thích ở trong ấy?
A Tu La bạch Phật: Trong biển lớn có tám việc chưa từng có, các A tu la vui thích ở trong ấy.
Thế nào là tám?
Biển lớn rất sâu rộng, đó là việc chưa từng có thứ nhất.
Lại nữa, biển lớn có thân đức này, bốn sông lớn, mỗi sông dẫn theo năm trăm sông nhỏ chảy vào biển lớn, rồi mất tên riêng của sông. Đó là pháp chưa từng có thứ hai.
Laị nữa, biển lớn đều có đồng một vị. Đó là pháp chưa từng có thứ ba.
Lại nữa, biển lớn nước thủy triều đúng thời không mất thời tiết. Đó là pháp chưa từng có thứ tư.
Lại nữa, biển lớn là nơi cư trú của các loài quỷ thần có hình tướng, hết thảy đều nằm trong biển lớn. Đó là pháp chưa từng có thứ năm.
Lại nữa, biển lớn dung chứa những loài hình tướng to lớn, trăm do tuần đến bảy ngàn do tuần cũng không chật chội. Đó là pháp chưa từng có thứ sáu.
Lại nữa, biển lớn xuất phát bao nhiêu trân bảo, xà cừ, mã não, trân châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Đó là pháp chưa từng có thứ bảy.
Lại nữa, phía dưới biển lớn có cát vàng, lại có núi Tu Di làm bằng bốn thứ trân bảo. Đó là điều chưa từng có thứ tám.
Ðây là tám pháp chưa từng có, khiến các A tu la vui thích trong ấy.
Lúc ấy, A tu la bạch Phật: Trong pháp Như Lai có gì kỳ đặc, khiến các Tỳ Kheo thấy rồi, vui thích trong ấy?
Phật bảo A tu la: Có tám pháp chưa từng có, khiến các Tỳ Kheo vui thích trong ấy.
Thế nào là tám?
Trong pháp của ta đầy đủ giới luật, không có hạnh phóng dật. Đó là pháp chưa từng có thứ nhất.
Các Tỳ Kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia rất sâu và rộng. Lại nữa, trong pháp của ta có bốn dòng họ đều làm Sa Môn trong pháp của ta không gọi theo tên cũ để làm tên riêng, cũng như biển lớn kia, bốn sông lớn đều chảy về biển mà đồng một vị, không có tên khác. Đó là pháp chưa từng có thứ hai.
Lại nữa, trong pháp của ta lập bày cấm giới, cùng vâng theo không vượt qua điều qui định. Đó là pháp chưa từng có thứ ba.
Lại nữa, trong pháp của ta đều đồng một vị, đó là vị của tám đạo phẩm của Hiền Thánh. Đó là pháp chưa từng có thứ tư, như biển lớn kia thảy đồng một vị.
Lại nữa, trong pháp của ta sung mãn các pháp. Ðó là tứ ý đoạn, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác ý, bát chân chánh hạnh, các Tỳ Kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia có các loài thần ở trong. Đó là pháp chưa từng có thứ năm.
Lại nữa, trong pháp của ta có các thứ trân bảo, đó là trân bảo niệm giác ý, trân bảo trạch pháp giác ý, trân bảo tinh tấn giác ý, trân bảo hỷ giác ý, trân bảo ỷ giác ý khinh an, trân bảo ðịnh giác ý, trân bảo hộ giác ý xả. Đó là điều chưa từng có thứ sáu.
Các Tỳ Kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia phát xuất các thứ trân bảo. Lại nữa, trong pháp của ta có các chúng sanh, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo. Nơi Vô Dư Niết Bàn mà được diệt độ, nhưng pháp của ta không tăng giảm, như biển lớn kia, các sông chảy vào, nước biển không tăng giảm. Đó là pháp chưa từng có thứ bảy.
Các Tỳ Kheo thấy rồi vui thích ở trong ấy. Lại nữa, trong pháp của ta có Kim Cang tam muội, Diệt tận tam muội, Nhất thiết quang minh tam muội, Ðắc bất khởi tam muội, các thứ tam muội không thể tính kể, các Tỳ Kheo thấy rồi vui thích. Như biển lớn kia phía dưới có cát vàng. Đó là pháp chưa từng có thứ tám.
Các Tỳ Kheo thấy rồi vui thích trong ấy. Trong pháp của ta có tám pháp chưa từng có này, các Tỳ Kheo rất tự vui thích.
Lúc ấy, A tu la bạch Phật: Giả sử trong pháp của Như Lai chỉ có một Pháp chưa từng có, cũng đã hơn tám việc chưa từng có của biển kia trăm lần, ngàn lần không thể so sánh: Đó là Tám đạo phẩm Hiền Thánh.
Lành thay! Thế Tôn hoan hỷ nói lời này.
Bấy giờ, Thế Tôn dần dần thuyết pháp, đó là luận về thí, về giới, về sanh Thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là hoạn lớn, xuất yếu là vui.
Bấy giờ Thế Tôn thấy A tu la mở thông tâm ý, Ngài bèn đem các Pháp Chư Phật thường nói như khổ, tập, tận diệt, đạo vì A tu la mà nói.
A Tu La bèn khởi ý niệm rằng: Ðáng lẽ có Năm Đế, nay Thế Tôn chỉ nói Bốn Đế, còn với Chư Thiên thì nói Năm Đế.
Khi ấy, Thiên Tử ở tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh.
A Tu La bạch Phật: Lành thay Thế Tôn! Hoan hỷ nói lời này, nay tôi muốn trở về chỗ mình.
Phật dạy: Nên biết đúng thời. A Tu La liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, theo đường mà đi. Khi ấy, Thiên Tử bảo A tu la.
Nay ý niệm của ông không tốt, nói rằng: Như Lai vì Chư Thiên nói Năm Đế, với ta chỉ nói Bốn Đế.
Vì sao?
Chư Phật Thế Tôn trọn không hai lời, Chư Phật trọn không bỏ chúng sanh, nói pháp cũng không mỏi mệt, nói pháp với tâm bình đẳng mà nói pháp. Có Bốn Đế là khổ, tập, tận, đạo. Nay ông chớ nghĩ như vậy mà đỗ lỗi Như Lai nói có Năm Đế.
A Tu La trả lời: Nay tôi làm việc không tốt, tự sẽ sám hối. Cần phải đến chỗ Phật hỏi nghĩa này. Bấy giờ, A tu la và Thiên Tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở tại nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ Kheo: Trời Đất chấn động mạnh có tám nhân duyên.
Thế nào là tám?
Tỳ Kheo nên biết! Ðất của Diêm Phù Đề này, chiều Nam Bắc hai vạn một ngàn do tuần, chiều Ðông Tây bảy ngàn do tuần, bề dầy sáu vạn tám ngàn do tuần. Nước sâu tám vạn bốn ngàn do tuần, lửa dày tám vạn bốn ngàn do tuần.
Dưới lửa có lớp gió dày sáu vạn tám ngàn do tuần. Phía dưới gió có lớp Kim Cang Luân Xá Lợi của Chư Phật Thế Tôn thời quá khứ đều ở đây.
Tỳ Kheo nên biết! Hoặc có khi gió lớn chấn động, lửa cũng động. Lửa đã động, nước liền động, nước đã động, đất liền động. Ðây là nhân duyên thứ nhất khiến đất chấn động mạnh.
Lại nữa, khi Bồ Tát từ Cõi Trời Ðâu Suất giáng thần vào thai mẹ, lúc ấy đất cũng chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ hai khiến đất chấn động mạnh.
Lại nữa, khi Bồ Tát giáng thần ra khỏi thai mẹ, lúc ấy đất cũng chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ ba khiến đất chấn động mạnh.
Lại nữa, khi Bồ Tát xuất gia học đạo, thành đạo Vô Thượng, Chánh Ðẳng, Chánh Giác, lúc ấy Trời Đất chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ tư khiến đất chấn động mạnh.
Lại nữa, nếu Như Lai ở cảnh giới Vô Dư Niết Bàn diệt độ, lúc ấy Trời Đất chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ năm khiến đất chấn động mạnh.
Lại nữa, nếu có Tỳ Kheo đại thần túc, tâm được tự tại, tùy ý muốn làm vô số biến hóa, hoặc phân thân ra trăm nghìn, rồi trở lại một thân, bay trên hư không, xuyên qua vách tường núi đá, ẩn hiện tự do, quán đất không có tướng đất, thảy đều rỗng không, lúc ấy đất chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ sáu đất chấn động mạnh.
Lại nữa, Chư Thiên đại thần túc, thần đức vô lượng mệnh chung từ nơi ấy lại sanh trở về nơi ấy. Do phước đời trước tạo đầy đủ các đức, bỏ thân Trời cũ, được làm Ðế Thích hoặc Tam Thiên Đại Thiên Vương. Lúc ấy đất chấn động mạnh. Ðó là nhân duyên thứ bảy đất chấn động mạnh.
Lại nữa, nếu chúng sanh mệnh chung phước hết, khi ấy các quốc vương không vừa ý nước của mình. Các nước chinh phạt lẫn nhau, hoặc bị đói hiểm mà chết, hoặc bị đao bén mà chết. Lúc ấy Trời Đất chấn động. Ðó là nhân duyên thứ tám khiến đất chấn động mạnh.
Như thế Tỳ Kheo! Có tám nhân duyên khiến Trời Đất chấn động mạnh. Bấy giờ, các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Tôn Giả A Na Luật ở tại bốn nơi Phật cư trú.
Lúc ấy, A Na Luật ở chỗ vắng khởi ý này: Trong hàng để tử của Phật Thích Ca Văn những bậc thành tựu giới đức trí tuệ, đều nương vào giới luật, ở trong chánh pháp này mà được nuôi lớn. Người không đầy đủ giới luật trong hàng Thanh Văn, những người này đều lìa chánh pháp, không tương ứng với giới luật.
Nay, như hai pháp này, giới và văn, pháp nào hơn?
Nay ta có thể đem cội gốc nhân duyên này, đến hỏi Như Lai, việc này thế nào?
A Na Luật lại khởi ý niệm này:
Pháp việc làm của người tri túc, không phải việc làm của người không biết đủ.
Pháp này là việc làm của người thiểu dục, không phải việc làm của người đa dục.
Pháp này là việc làm của người ở chỗ vắng, không phải việc làm của người ở chỗ ồn.
Pháp này là việc làm của người trì giới, không phải việc làm của người phạm giới.
Pháp này là việc làm của người định, không phải việc làm của người loạn.
Pháp này là việc làm của người trí tuệ, không phải việc làm của người ngu si.
Pháp này là việc làm của người đa văn, không phải việc làm của người ít học.
Lúc ấy, A Na Luật, suy nghĩ về tám điều tâm niệm của bậc Đại Nhân rồi nghĩ rằng: Nay ta có thể đến chỗ Thế Tôn để hỏi nghĩa này.
Bấy giờ, Thế Tôn ở tại thành Xá Vệ, rừng Kỳ Đà vườn Cấp Cô Ðộc. Lúc ấy, vua Ba Tư Nặc thỉnh Phật và chư Tỳ Kheo Tăng Kiết Hạ ba tháng, A Na Luật dẫn năm trăm Tỳ Kheo, dần dần du hóa trong nhân gian, lần đến nước Xá Vệ, đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, lui ngồi một bên.
Tôn Giả A Nan bạch Phật: Con ở nơi vắng lặng, suy nghĩ về nghĩa này.
Giới và Văn, hai pháp này pháp nào tối thắng?
Khi ấy, Đức Phật bèn vì A Na Luật nói kệ:
Giới hơn hay Văn hơn
Nay ông khởi hồ nghi
Giới tối thắng hơn Văn
Trong đó có gì nghi.
Vì sao?
A Na Luật nên biết! Nếu Tỳ Kheo thành tựu giới, liền được định ý. Ðã được định ý liền được trí tuệ. Ðã được trí tuệ liền được đa văn. Ðã được đa văn liền được giải thoát. Ðã được giải thoát liền được diệt độ nơi Niết Bàn vô dư. Do điều này biết rõ rằng giới là tối thắng. Lúc ấy, A Na Luật hướng về Thế Tôn, nói tám điều tâm niệm của bậc Đại Nhân.
Phật bảo A Na Luật: Lành thay, lành thay, A Na Luật!
Ðiều thầy suy nghĩ chính là điều suy nghĩ của bậc đại nhân: Ít muốn, biết đủ, ở chỗ vắng, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn.
A Na Luật! Nay thầy nên khởi ý này, suy nghĩ về tám điều tâm niệm của bậc đại nhân.
Thế nào là tám?
Pháp này là việc làm của người tinh tấn, không phải việc làm của người giải đãi.
Vì sao?
Bồ Tát Di Lặc đáng lẽ trong ba mươi kiếp sẽ thành đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nhưng ta do sức tinh tấn mà thành Phật trước hơn.
A Na Luật biết đó, các Đức Phật Thế Tôn đồng một bậc, đồng nhau về giới luật, giải thoát trí tuệ không khác. Cũng lại đồng nhau về không, vô tướng, vô nguyện, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân, nhìn không chán, không thể thấy đảnh, thảy đều không khác, chỉ có tinh tấn không đồng.
Ðối với Chư Phật Thế Tôn thời quá khứ và tương lai, người tinh tấn hơn hết là ta.
Cho nên, này A Na Luật! Ðiều tâm niệm thứ tám của bậc đại nhân này là tối thượng, là tôn quý, không có thí dụ nào sánh kịp.
Cũng như do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ nhưng trong đó đề hồ là hơn hết, không thể so sánh.
Ðây cũng thế, ý niệm tinh tấn đối với trong tám điều tâm niệm của bậc đại nhân là tối thượng, thật không thể so sánh. Cho nên A Na Luật, nên vâng theo tám điều tâm niệm của bậc đại nhân, cũng nên vì bốn bộ chúng phân biệt nghĩa ấy.
Nếu tám điều tâm niệm của đại nhân được lưu truyền tại thế gian thì khiếnđệ tử ta đều được thành tựu quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
Vì sao?
Pháp ta là điều được làm của người thiểu dục, không phải là điều được làm của người đa dục.
Pháp ta là điều được làm của người tri túc, không phải điều được làm của người không biết đủ.
Pháp ta là điều được làm của người ở chỗ vắng, không phải là điều được làm của người ở trong chúng.
Pháp ta là điều được làm của người trì giới, không phải là điều được làm của người phạm giới.
Pháp ta là điều được làm của người định, không phải là điều được làm của người loạn.
Pháp ta là điều được làm của người trí, không phải là điều được làm của người ngu.
Pháp ta là điều được làm của người tinh tấn, không phải là điều được làm của người giải đãi.
Thế nên, A Na Luật! Bốn bộ chúng nên tìm cách thực hành tám điều tâm niệm của bậc đại nhân này. Như thế, A Na Luật nên học điều này.
Bấy giờ, Tôn Giả A Na Luật nghe Phật dạy xong vui vẻ vâng làm.
***