Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
 

PHẨM MƯỜI NĂM

PHẨM HỮU VÔ
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Nên biết có hai kiến chấp này.

Thế nào là hai?

Nghĩa là hữu kiến và vô kiến. Có các Sa Môn, Bà La Môn đối với hai kiến này đã học tập, đã tụng đọc, trọn không theo pháp, như thực chẳng biết. Ðây chẳng phải là Sa Môn, Bà La Môn. Ở trong Sa Môn thì phạm pháp Sa Môn, ở trong Bà La Môn thì phạm pháp Bà La Môn. Sa Môn, Bà La Môn này trọn chẳng do thân tác chứng mà tự du hí.

Có các Sa Môn, Bà La Môn đối với hai kiến này tụng đọc, nghĩ nhớ biết xả bỏ, như thực mà biết. Ðây là Sa Môn biết giữ hạnh Sa Môn, Bà La Môn biết giữ hạnh Bà la môn, tự thân thụ chứng, để tự du hí.

Sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Thế nên, các Tỳ Kheo, đối với hai kiến này, chẳng nên học hành, chẳng nên đọc tụng, nên lìa bỏ hẳn.

Như thế, này các Tỳ Kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai kiến này.

Thế nào là hai kiến?

Ðó là hữu kiến và vô kiến.

Thế nào là hữu kiến?

Nghĩa là dục hữu kiến, sắc hữu kiến, vô sắc hữu kiến.

Thế nào là dục hữu kiến?

Nghĩa là ngũ dục.

Thế nào là ngũ dục?

Nghĩa là mắt thấy sắc rất yêu thích nghĩ nhớ. Người đời tôn thờ chưa từng xa lìa, như tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị, thân biết xúc chạm, ý rõ các pháp. Ðó là hữu kiến.

Thế nào gọi là vô kiến?

Nghĩa là thấy hữu thường và thấy vô thường. Có cái thấy đoạn diệt và thấy không đoạn diệt, thấy hữu biên, thấy vô biên. Thấy có thân, thấy không thân. Thấy có mạng, thấy không mạng. Thấy thân khác, thấy mạng khác. Sáu mươi hai kiến chấp này gọi là vô kiến, cũng chẳng phải là chân kiến. Ðó gọi là vô kiến.

Thế nên, các Tỳ Kheo, nên bỏ hai kiến này.

Như thế, các Tỳ Kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai sự bố thí này.

Thế nào là hai?

Ðó là pháp thí và tài thí.

Này các Tỳ Kheo!

Bố thí hơn hết không gì qua pháp thí. Thế nên, các Tỳ Kheo, nên thường học pháp thí.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai nghiệp.

Thế nào là hai nghiệp?

Có pháp nghiệp và có tài nghiệp. Nghiệp trên hết không gì qua pháp nghiệp. Thế nên, này các Tỳ Kheo, nên học pháp nghiệp, chớ học tài nghiệp.

Như thế, này các Tỳ Kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai ơn này.

Thế nào là hai?

Ðó là ơn pháp và ơn tài. Hơn hết trong các ơn, không gì qua ơn pháp. Thế nên, các Tỳ Kheo, hãy tu hành ơn pháp.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Người ngu si có hai thứ tướng mạo.

Thế nào là hai?

Ở đây, người ngu đối với việc không đáng làm mà làm, việc làm sắp xong thì chán bỏ. Ðó là, này các Tỳ Kheo, người ngu có hai tướng mạo này. Lại nữa, Tỳ Kheo, người trí có hai tướng mạo.

Thế nào là hai?

Ở đây, người trí đối với việc không đáng làm thì không làm, việc làm gần xong không chán bỏ. Thế nên, này các Tỳ Kheo, hai tướng mạo của người ngu phải nên xa lìa. Nên nhớ tu hành hai tướng mạo của người trí.

Như thế, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai pháp này, trong tự suy xét chuyên chú một lòng cũng như lễ Như Lai.

Thế nào là hai pháp?

Ðó là trí tuệ và diệt tận. Như thế Tỳ Kheo đối với hai pháp này trong tự suy xét, chuyên chú một lòng cũng như lễ Như Lai.

Như thế, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai pháp này, trong tự suy xét, chuyên chú một lòng cũng như lễ Pháp Bảo hay Thần Miếu của Như Lai.

Thế nào là hai pháp?

Có lực, có vô úy. Như thế, Tỳ Kheo đối hai pháp này trong tự suy xét, chuyên chú một lòng như lễ Pháp Bảo và Thần Miếu của Như Lai.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai pháp này, trong tự suy xét, chuyên chú một lòng như lễ Chùa của Như Lai.

Thế nào là hai pháp?

Như Lai cùng người thế gian không có ai bằng. Như Lai có đại từ, đại bi, thương xót nhớ nghĩ mười phương. Như thế, Tỳ Kheo đối hai pháp này, trong tự suy xét, chuyên chú một lòng như lễ Chùa của Như Lai.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai nhân, hai duyên khởi ra chánh kiến.

Thế nào là hai?

Nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về chỉ, quán trong lòng. Như thế, Tỳ Kheo đối hai nhân, hai duyên khởi ra chánh kiến.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Nhị kiến và nhị thí,

Người ngu có hai tướng.

Lễ pháp, Miếu Như Lai,

Chánh kiến ở sau cùng.

***